THĂNG TIẾN

I. CHƯƠNG TRÌNH THĂNG TIN LÀ GÌ
Chương trình Thăng Tiến Thiếu nhi là hệ thống các bài học (lý thuyết và thực hành), chương trình hội họp và sinh hoạt chính thức, nhằm giúp thiếu nhi ngày càng lớn lên và trưởng thành về đời sống tâm linh (siêu nhiên) và đời sống nhân bản (tự nhiên). Chương trình Thăng Tiến thực sự là cuốn cẩm nang của Huynh Trưởng.
Chương trình Thăng tiến được soạn theo phương pháp tiệm tiến, từ dễ đến khó, từ thấp đến cao, phù hợp với tâm lý của từng lứa tuổi, tương ứng với từng ngành: Ấu (7-9 tuổi); Thiếu (10-12 tuổi); Nghĩa (13-15 tuổi) và được phân phối phù hợp với các buổi họp trong năm.

II. NỘI DUNG CHƯƠNG TRÌNH THĂNG TIẾN.
Trước năm 1975, Phong Trào đã có tài liệu khá đầy đủ. Chương trình Thăng tiến của mỗi ngành đều gồm 4 phần căn bản:
GIÁO LÝ
+   Thánh Kinh (Hiểu biết Thánh Kinh – Học, suy niệm sống Lời Chúa)
+   Tín lý (hiểu, sống)
+   Phụng vụ, Bí tích (hiểu, sống)
+   Luân lý (Giới răn Chúa và Hội Thánh…)
+   Đời sống cầu nguyện, các kinh căn bản…
NHÂN BẢN
+   Đào luyện bản htân về đức, trí, thể, mỹ.
+   Sống tương giao với tha nhân (gia đình, khu xóm, trường học, xã hội…)
PHONG TRÀO
+   Hiểu biết về Bản chất, Tôn chỉ, Mục đích, Đường lối, Phương pháp của Phong Trào TNTT.
+   Tập sống theo Đường lối, Tôn chỉ, Phương pháp của Phong Trào. Đào sâu tình liên đới với Chúa Giêsu Thánh Thể là lý tưởng của Phong Trào.
KỸ NĂNG CHUYÊN MÔN
+   Hiểu công dụng và thực hành các kỹ năng cần thiết trong đời sống: nút dây, morse, mật thư, dấu đường, gia chánh, trang trí, cứu thương, thể dục, thể thao, nhạc, họa, vi tính,…
+   Tạo cơ hội áp dụng các kỹ năng trong sinh hoạt, nhất là trong đời sống thường ngày.

III. THỰC HICHƯƠNG TRÌNH THĂNG TIẾN
1.     Chương trình Thăng tiến được dạy trong các buổi họp đội hoặc chi đoàn hàng tuần.
2.     Chương trình Thăng tiến được phân bố vừa đủ cho các cấp, các ngành trong 3 năm (có dự trù những tuần lễ nghỉ. Do đó mỗi cấp chỉ còn khoảng 25-30 bài trong 52 tuần của năm)

 IV. CHƯƠNG TRÌNH THĂNG TIẾN HIỆN NAY
Sau năm 1975, Phong Trào đã ngưng hoạt động gần 30 năm qua. Xã hội đã phát triển và thay đổi nhiều. Các giáo phận có chương trình giáo lý cho thiếu nhi. Nếu áp dụng song song 2 chương trình thì quá nặng cho các em và khó có thể thực hành rộng rãi. Hơn nữa, Chương trình Thăng tiến cũ không đủ đáp ứng với nhu cầu giáo dục thiếu nhi hiện tại, mà cần phải đổi mới, cập nhật cho phong phú hơn. Hiện Ban Nghiên Huấn Liên Đoàn đang làm việc ráo riết nhưng không hấp tấp, thực hiện Chương trình Thăng tiến mới cho phù hợp với nhu cầu trên. Hy vọng Chương trình Thăng tiến mới sẽ sớm ra mắt để phục vụ nhu cầu của Phong Trào đang trong giai đoạn phát triển đầy lạc quan này.

V. MỘĐỀ NGHỊ TẠM CHO HIỆN TẠI
Trong khi chờ đời Chương trình Thăng tiến mới, đề nghị các Đoàn:
-    Phần giáo lý, Thánh Kinh và đời sống đạo: lấy chương trình giáo lý của giáo phận, vốn đã được phân bổ hàng tuần, làm tài liệu chính. Có thể làm phong phú thêm với những bài học về nhân bản, thực hành Hoa thiêng, Chiến dịch thi đua…
-    Phần Phong Trào, xin tham khỏa Nội qui Tổng Liên Đoàn năm 1974 và Nghi thức Phong Trào năm 1974, tài liệu Phong Trào năm 2003, Sổ tay Huynh Trưởng năm 2004, Sổ tay Tuyên Úy năm 2004. Tất cả  được bán tại Văn phòng Mục Vụ Thiếu nhi (180 Nguyễn Đình Chiểu, Quận 3)
-    Ngoài ra, cuốn Sổ tay Tông đồ Đội trưởng và cuốn chương trình Thăng tiến Ngành Thiếu do Linh mục Vinh Sơn Trần Hòa mới biên soạn cũng là những tài liệu tham khảo rất tốt để sử dụng trong khi chờ đợi tài liệu chính thức của Phong Trào.
-    Phần chuyên môn: tham khảo Chương trình Thăng tiến cũ và một số tài liệu chuyên môn khác tùy lứa tuổi và cấp lớp (tài liệu rất nhiều).
[Nguồn: Sổ tay Huấn luyện Huynh trưởng cấp 1, bài 9]




LỬA THIÊNG THÁNH THỂ

Đối với Phong Trào Thiếu Nhi Thánh Thể, Lửa Thiêng Thánh Thể là:
-    Một loại hình sinh hoạt vui tươi hấp dẫn không thể thiếu trong các sa mạc Huấn luyện hay các sa mạc có qua đêm.
-    Sinh hoạt có mục đích giáo dục, kết thúc Ngày Thánh Thể trong sa mạc huấn luyện của Phong Trào.
I. Ý NGHĨA CỦA LỬA THIÊNG THÁNH THỂ
-    Lửa vẫn có trong thiên nhiên. Nhưng con người chỉ mới tìm ra lửa một cách tình cờ cách đây chưa đầy một trăm ngàn năm. Khi trời lạnh, người ta đốt lửa để sưởi ấm; lúc trời tối, đốt lửa lên để tìm ánh sáng. Sau một ngày săn bắn, tìm kiếm lương thực người ta quây quần bên đống lửa, nhảy múa vui chơi và chia sẻ thức ăn săn được hoặc phân chia chiến lợi phẩm sau một ngày chiến đấu gian lao.
-    Trong lịch sử cứu độ, lửa có một vai trò và ý nghĩa đặc biệt đối với dân Israel: Lửa nói lên sự hiện diện và can thiệp của Thiên Chúa (bụi gai cháy, lửa thiêu đốt lễ vật, lửa soi sáng Israel trong hành trình sa mạc, lửa quét sạch tội lỗi…)
-    Để hoàn tất chương trình cứu độ của Thiên Chúa, Đức Giêsu đã đến thế gian xua đi bóng tối của sự chết bằng ánh sáng Phục Sinh của Người.
-    Để bầu chữa, soi sáng, thánh hóa nhân loại, Chúa Thánh Thần đã đến trên các Tông đồ và Hội Thánh dưới hình lưỡi lửa trong ngày lễ Ngũ Tuần để đưa nhân loại vào một kỷ nguyên mới: Sự sống và Ánh sáng.
Vào cuối Ngày Thánh Thể trong sa mạc Huấn luyện, các sa mạc sinh quây quần trong hơi ấm và ánh sáng của đống lửa hữu hình để tưởng nhớ đến ánh lửa thiêng mà Thiên Chúa đem đến cho tâm hồn mỗi người, để mọi người hợp nhất trong cùng một ngọn lửa của Thiên Chúa, Lửa Tình Yêu, Lửa Thiêng Thánh Thể.
 II. TỔ CHỨC LỬA THIÊNG THÁNH THỂ
1. Nhân sự
-    Người tổ chức: có nhiệm vụ từ A tới Z.
-    Quản trò: phụ trách điều phối các tiết mục, linh hoạt trong suốt buổi Lửa Thiêng Thánh Thể.
-    Quản ca: phụ trách phần ca vũ. Phối hợp nhịp nhàng với quản trò.
-    Quản lửa: phụ trách củi lửa, vật dụng lửa (Củi, đuốc, mồi, dầu, nước, muối, gậy…)
2. Tổ chức
-    Chọn chủ đề có thể là một chủ đề trực tiếp trong Thánh Kinh, hoặc mang giá trị Thánh Kinh. Và các mục văn nghệ khác không bắt buộc thuần sắc Thánh Kinh, nhưng phải lành mạnh và có giá trị giáo dục.
-    Phân công tiết mục cho các đội theo chủ đề. Các đội phụ trách tiết mục phải hoàn thành việc tập dợt trước giờ khai mạc. Các tiết mục phải nộp kịch bản cho ban tổ chức để được kiểm duyệt và xếp thứ tự trước khi diễn xuất. Quản trò nắm vững các tiết mục để lên chương trình điều phối.
-    Quản trò và quản ca phải nắm vững chương trình linh hoạt xen kẽ và ứng phó những trở ngại bất thường về diễn xuất.
-    Chọn địa điểm an toàn, phòng ngừa hỏa hoạn và mặt bằng thích hợp với số người tham dự.
-    Củi đủ khô để dễ cháy. Khối lượng tương đối đủ cho thời gian sinh hoạt.
-    Sẵn sàng dụng cụ mồi lửa, tăng, giảm, dập lửa và châm lửa (đuốc cho vị chủ tọa châm lửa).
-    Nên xếp quan khách phía đầu gió để tránh khói và nóng.
3. Nghi thức khai mạc Lửa Thiêng Thánh Thể
-    Sa mạc sinh quây quần quanh đống lửa.
-    Trưởng đại diện mời quan khách (nếu có), chào và bắt đầu nghi thức.
-    Trong bóng tối, một người nói chút ý nghĩa của lửa. nói đến sự khống chế của tội lỗi, của sự chết khi chưa nhân được ánh sáng Chúa Kitô. Khi Chúa Kitô đến thì mọi sự đổi thay… (không nên dùng hình ảnh thần này hay thần khác. Qua cuộc thanh luyện trong sa mạc, dân Chúa đã được Thiên Chúa giáo dục một tôn giáo độc thần, chỉ tin thờ một Thiên Chúa Duy Nhất)
-    Mọi người gọi lửa mỗi lúc một nhanh và dồn dập như mong đợi (hát bài Gọi Lửa)
-    Đuốc được đốt lên và trao cho vị cao cấp nhất châm vào đống củi.
-    Khi lửa bốc cao, mọi người chào lửa (Vũ bài Chào lửa) và bắt đầu chương trình.
4. Nghi thức bế mạc (Mang lửa về tim)
-    Điều chỉnh lại vòng tròn.
-    Mời vị cao cấp nhất nói ý nghĩa “Mang lửa về tim” (Lửa tình yêu được mỗi người đưa về, ấp ủ trong tim để rồi sẽ truyền đến cho anh chị em) và chủ tọa giờ kinh tối. truyền lửa cho từng người (đốt nến).
-    Mở một lối trong vòng tròn. Mọi người vừa đi vừa hát, tay cầm nến cháy theo hàng về lều. Nghỉ đêm.
-    Ban điều hành và quan khách tách khỏi hàng, đứng tiễn sa mạc sinh cho đến khi người cuối cùng đi khỏi.
LƯU Ý: luôn có chương trình dự phòng đề phòng trời mưa.
[Nguồn: Sổ tay Huấn luyện Huynh trưởng cấp 1, bài 16]



TỔNG QUÁT VỀ TÂM LÝ THIẾU NHI [C1]


Tìm hiểu sự phát triển tâm lý và phân tích đặc tính tâm lý trong từng giai đoạn phát triển của thiếu nhi là một vấn đề rộng lớn, phức tạp và khó khăn; đưa ra những phương cách giáo dục thích ứng với đặc tính của từng thời kỳ phát triển tâm lý thiếu nhi đòi hỏi phải nỗ lực rất nhiều, nhưng lại là yếu tố then chốt của vấn đề giáo dục thiếu nhi. Đây là trách nhiệm của nhiều giới: Phụ huynh, nhà giáo, nhà xã hội học, linh mục, tu sĩ, Giáo lý viên và Huynh Trưởng Thiếu Nhi Thánh Thể.
 I. TỪ 7 ĐẾN 9 TUỔI
1. Đặc tính tâm lý
-    Có thể tiếp nhận và hiểu các khái niệm trừu tượng như số đếm, các phép tính, phân biệt giá trị của những con số: Tuổi đi học.
-    Bắt đầu ra khỏi gia đình để đi học, ít là mỗi ngày nửa buổi: Xáo trộn về sinh hoạt thường ngày.
-    Biết và thích chơi theo nhóm, tương quan bạn bè mỗi ngày thêm gắn bó: Quan hệ ruột thịt dần dần chuyển sang tương quan xã hội.
-    Trong lớp có thầy cô; trong nhóm chơi có “thủ lãnh”, thần tượng cha mẹ nay đã dần dần không còn là độc tôn nữa mà được thay thế bằng thầy cô, Huynh Trưởng, Giáo lý viên.
2. Giải pháp cho lứa tuổi này
-    Thích hợp cho việc dạy Giáo lý bằng chữ, sách.
-    Nên đưa các em vào tổ chức. Quan sát và tìm “thủ lãnh” (đội trưởng) ngay trong nhóm các em.
-    Giúp các em tự quản nhóm. Chuẩn bị cho Hàng đội tự trị sau này. Huynh Trưởng, Giáo lý viên phải luôn là mẫu mực cho các em.
 II. TỪ 10 ĐẾN 12 TUỔI
1. Đặc tính tâm lý
-    Có thắc mắc về sự kiện xảy ra về bài học ở trường hay ở đoàn, lớp giáo lý: Đang hình thành cái tôi.
-    Đi học, đi lễ một mình, không bám áo mẹ như mấy năm trước nữa, thích có tiền riêng, chỗ học riêng, xe đạp riêng:khuynh hướng độc lập, tư hữu.
-    Hay thắc mắc về việc làm của người lớn có liên quan tới em: Óc suy luận tư duy bắt đầu phát triển.
-    Kết thân với bạn bè chặt chẽ, lâu bền: Tính xã hội phát triển mạnh.
2. Giải pháp cho lứa tuổi này
-    Thuận tiện để tổ chức Hàng đội tự trị.
-    Tạo điều kiện và hướng dẫn các em kết giao, sinh hoạt nhóm lành mạnh.
-    Các bài dạy nên có ít câu hỏi suy luận đón trước thắc mắc của các em. Tạo điều kiện cho các em thắc mắc, đồng thời phải trả lời thỏa đáng, nhưng đơn giản.
-    Trong sinh hoạt, nên giao cho các em (cá nhân hoặc đội) đảm trách một số việc vừa sức, giúp các em tập hội nhập cộng đồng sau này.
 III. TỪ 13 ĐẾN 15 TUỔI
1. Đặc tính tâm lý
-    Đi nhiều hơn ở nhà. Không muốn lệ thuộc cha mẹ và bị kiểm soát như trước đây: Khuynh hướng tự lập phát triển mạnh.
-    Sức sống thể lý dồi dào, chân tay thừa thãi, cử chỉ vụng về. Tính dục phát triển mạnh. Ý tứ đối với bạn “phe kia”: Thể lý “qua mặt” tâm lý, thời kỳ “quá độ” trước khi bước vào giai đoạn trưởng thành.
-    Phản kháng những việc không vừa lòng: Óc suy luận, phán đoán phát triển, mặc dù chưa chín chắn.
-    Sẵn sàng can thiệp những chuyện bất bình: Tinh thần nghĩa hiệp, vô vị lợi.
 2. Giải pháp cho lứa tuổi này
-    Phát huy tối đa Hàng đội tự trị.
-    Trong sinh hoạt, cần có những hoạt động mạnh.
-    Thông cảm với các lời nói, thái độ, hành động cộc cằn, thậm chí bị cho là vô lễ của các em.
-    Nên hiểu các em bằng cái nhìn tâm lý; đối xử bằng hành vi giáo dục hơn là căn cứ vào hiện tượng bên ngoài để “xử lý” các em.
-    Nhìn nhận, khám phá mặt tích cực nơi các em bằng cách trao việc, trao trách nhiệm cho các em.
-    Giúp các em sáng kiến hoạt động từ thiện, bác ái, công tác công cộng, giúp các em tập phán đoán và nhạy bén trước các vấn đề lương tâm. Đồng thời phát huy tinh thần nghĩa hiệp.

Các giai đoạn của tuổi tâm lý không có ranh giới rõ ràng như ranh giới vật chất. Các biến chuyển tâm lý tuy được xếp theo lứa tuổi, nhưng chỉ là chung chung và tương đối. Biến chuyển tâm lý nơi mỗi em khác nhau còn tùy thuộc vào:
-    Nền tảng giáo dục gia đình từ lúc sinh ra đến 6 tuổi.
-    Môi trường xã hội các em đã và đang sống (khu lao động khác với làng đại học; thành phố khác với vùng sâu, vùng xa…)
Những giải pháp giáo dục không phải là giải pháp đồng loạt, không phải là đũa thần giải quyết được mọi tình huống tâm lý nhưng căn cứ vào nguyên tắc chung kết hợp với quan sát, theo dõi biến chuyển tâm lý của từng em để có kết luận. Trong giải pháp ứng xử cho cả tập thể, phải có giải pháp cho từng em. Nhất là những em cá biệt. Giáo dục không thuần túy là việc của khối óc nhưng còn của con tim. Hiệu quả của các biện pháp giáo dục tâm lý còn tùy thuộc vào nhiều yếu tố: Khả năng, trường phái tâm lý của nhà giáo dục, môi trường sống của các em được giáo dục, tương quan với nhà giáo dục.
Kiến thức + kinh nghiệm + quan sát thực tế = giải pháp
[Nguồn: Sổ tay Huấn luyện Huynh trưởng cấp 1, bài 14]

CÁCH SOẠN VÀ DẠY BÀI KHÓA CHO ĐOÀN SINH [C1]


I. ĐIỀU KIỆN CẦN VÀ ĐỦ
Để soạn và dạy bài khóa cho đoàn sinh, Huynh Trưởng cần đáp ứng những đòi hỏi sau:
1.     Nội dung: bài học hôm nay nói về vấn đề gì?
2.     Người dạy có nắm vững bài không? Có mấy ý?
3.     Đối tượng nghe là ai? Tuổi nào? Để chọn phương pháp trình bày thích hợp.
4.     Ý chính phải nhấn mạnh. Thí dụ: Chuyện Chúa gọi Abraham, cần nhấn mạnh đến lòng tin của ông. (không để các chi tiết hấp dẫn làm mờ ý chính)
5.     Bài học phải dẫn đến kết luận thực hành.
 II. SOẠN BÀI KHÓA
1.     Soạn bài là bước chuẩn bị đầu tiên và bắt buộc đối với người dạy. Nếu không soạn, bài sẽ không biết bắt đầu từ đâu, chấm dứt chỗ nào, điều gì cần nói trước, điều gì phải nói sau. “Chưa soạn bài, không nên dạy”.
2.     Soạn bài là sắp xếp kiến thức của người dạy để dễ dàng thông truyền cho các em, theo nhu cầu và phù hợp với trình độ tiếp nhận của các em.
3.     Hình thành bài khóa sẽ dạy cho các em. Tùy theo khả năng của người dạy mà bài soạn có thể chỉ là một dàn bài chi tiết, hoặc là cả một bài học đầy đủ.
4.     Tham khảo tài liệu để bài khóa được phong phú, chỉ chọn những chi tiết cần thiết để đưa vào bài khóa. Sách giáo khoa là chính yếu.
5.     Bài khóa phải có phần dành cho các em làm việc. phần này nên là một hệ thống câu hỏi từ dẫ đến khó nhằm mục đích:
-    Củng cố kiến thức của các em
-    Kích thích sự thắc mắc nơi các em
-    Giúp các em đặt vấn đề
-    Giúp các em biết cách giải quyết tình huống, chọn thái độ và cách sống… dựa theo ý của bài. Hệ thống này có thể dài, ngắn, dễ, khó tùy lứa tuổi và trình độ của các em.
III. CÁCH DẠY
1. Khởi đầu bài dạy
Giới thiệu bài học, thường có 2 cách khởi đầu:
-    Trực khởi: Đi ngay vào vấn đề. Thí dụ, khởi đầu chuyện ông Giuse bị bán sang Ai Cập: “Giuse là con thứ 11 của ông Giacob…” Cách này thường được dùng để khởi đầu bài cho các em lớn như Nghĩa sĩ chẳng hạn.
-    Lung khởi: Vào đề từ từ, Thí dụ, như câu chuyện trên: “Các em có biết ông Giacob có mấy người con không? Kể ra…” Cho đến khi ta giúp các em kể tới Giuse, ta mới kể riêng về ông… Cách này thích hợp cho tuổi nhỏ hơn.
2. Nội dung bài khóa
-    Trình bày theo văn nói. Nói êm nhẹ, hoặc cường điệu tùy theo nội dung từng phần của bài. Khi có thể, nên thêm chút hài hước.
-    Các phần của nội dung cần được nối tiếp bằng những câu “bản lề” thích hợp.
-    Do sự tinh tế của người dạy, khi nhận thấy các em lơ là, lo ra, nên thay đổi cách nói hoặc hỏi một vài em để tạo lại sự chú ý cần thiết nơi các em.
-    Dùng ngôn ngữ của các em.
-    Không chỉ dạy bằng kiến thức, mà bằng cả tâm hồn. Lời nói cần rõ ràng, lớn vừa đủ, dứt khoát. Không tạo cho các em thói quen “nói đuôi”. Câu hỏi phải tích cực (đã hỏi, phải để các em trả lời và có sửa sai. Không chỉ hỏi cho có).
-    Hình ảnh minh họa, bài ca, trò chơi, tiếng reo phù hợp với nội dung bài là phương tiện rất hữu ích giúp các em nhớ bài.
-    Cử điệu và thái độ xác tín của người dạy có sức lôi cuốn và tạo ấn tượng sâu nơi các em.
-    Kiểm tra sự tiếp thu của các em bằng hệ thống câu hỏi.
-    Phần ghi chép, dài ngắn tùy theo cấp, tùy theo tuổi. ở tuổi lớn, có thể cho các em tổng hợp bài trong sách và tóm bài giảng thành bài của chính các em, với sự hiệu đính của trưởng dạy bài.
-    Sau mỗi bài, Trưởng phải ghi nhận những chi tiết thuận lợi cũng như khó khăn; Phân tích nguyên nhân; Rút kinh nghiệm cho bài sau.
3. Kết bài
-    Tóm lại những ý chính cần nhớ.
-    Đưa ra quyết định và việc làm thực hành theo ý của bài vừa học.
[Nguồn: Sổ tay Huấn luyện Huynh Trưởng cấp 1, bài 8]



NHỮNG ĐỨC TÍNH CẦN THIẾT CỦA NGƯỜI HUYNH TRƯỞNG TNTT [C1]

 Một cộng đồng dù lớn hay nhỏ muốn tồn tại, nhất định phải có người dẫn đầu. Người đó có thể được chỉ định, hoặc do các thành viên lựa chọn, bầu lên theo quy ước hay luật lệ nào đó. Phải nhận rằng, dù được bầu hay được mặc nhiên công nhận, người đầu nhóm phải có những yếu tố khiến người trên tín nhiệm, đồng sự yêu mến, cấp dưới tuân phục và trao “số phận” cả nhóm cho. Anh chị là người có tài năng và có đức tính. Tài năng và đức tính này không chỉ do trời phú ban mà phải học và phải tập. Trong bài này, chúng ta sẽ bàn về những đức tính cần thiết của người huynh trưởng.
1.     QUẢNG ĐẠI: Người làm lớn phải có quả tim lớn, có tấm lòng bao dung:
-    Quảng đại để dễ chấp nhận tha nhân (Các em, các trưởng, bạn .v.v…)
-    Quảng đại để chấp nhận những khác biệt nơi anh chị em. Không chỉ nhằm được việc nhưng còn nối được nhiều bàn tay cộng tác trong công việc chung.
-    Quảng đại để biết tha thứ: Không coi những khuyết điểm quan trọng hơn những nỗ lực và thiện chí của anh chị em.
-    Quảng đại để sẵn sàng hy sinh. Cho đi thời giờ, sức lực, tài năng và cả tiền của trong việc phục vụ, mà không tính toán. Chỉ mong lợi ích cho các thiếu nhi.
Lòng quảng đại có sức thuyết phục và cảm hoá hơn quyền lực.
 2.     TỰ TIN. Lãnh đạo là người đứng cao hơn, có cái nhìn bao quát hơn, nơi họ toả ra sức mạnh làm yên tâm những người cộng tác.
-    Trưởng không tin nơi mình, sẽ không đủ sức thuyết phục các em. Tự tin phải có cơ sở khách quan: lượng giá đúng về mình, về người và về công việc.
-    Tin vào mục đích tốt mình đang nhắm tới; con đường mình đang đi; phương pháp đang áp dụng. “Trẻ em không thích những người chỉ huy hèn yếu” (cha Lacordaire). Tin rằng mình có khả năng thực hiện công việc đã suy nghĩ và chọn lựa. Người tự tin luôn lạc quan, vui vẻ, khiêm tốn.
-    Tự tin giúp người trưởng bình tĩnh, quyết đoán, sáng suốt trong công việc. Do đó dẫn đến hiệu quả cao. Người tự tin thường quả quyết, không dễ để cho người khác hoặc nghịch cảnh thay đổi ý định của mình. (Quả quyết không phải là cố chấp, độc đoán; nhưng biết lắng nghe, quan sát để chỉnh sửa công việc khi cần. Sau khi đã bàn bạc, cân nhắc thì không chùn bước).
-    Lòng tự tin của người trưởng thể hiện qua cách hướng dẫn, nó động viên những người đồng sự để họ nhiệt tâm và hăng hái làm việc.
 3.     KỶ LUẬT. Người lãnh đạo không có kỷ luật bản thân, không tôn trọng kỷ luật chung thì làm sao điều khiển.
-    Kỷ luật là đòi hỏi của bất cứ tổ chức nào. Kỷ luật là sức mạnh. Đoàn thể nào thiếu kỷ luật chắc chắn sẽ tan rã.
-    Tinh thần kỷ luật là ý thức, chấp nhận và tuân thủ các quy ước một cách tự nguyện.
-    Huynh Trưởng là người đầu tiên có bổn phận duy trì kỷ cương phép tắc trong đoàn. Do đó phải xây dựng ý thức và chấp hành kỷ luật trước khi yêu cầu các em (soạn bài, đúng giờ, đồng phục, không nói chuyện trong nhà thờ, v.v …)
-         Kỷ luật phải nghiêm minh. Nghiêm mà không minh là độc tài.
 4.     TRÁCH NHIỆM. Là lãnh đạo không thể tắc trách.
-    Trách nhiệm là gánh chịu hậu quả của lời nói hoặc việc làm của mình.
-    Ý thức trách nhiệm sẽ giúp Huynh Trưởng giữ gìn cẩn trọng lời nói, thái độ, hành động để không ảnh hưởng xấu, làm hại, hoặc xúc phạm người khác. Huynh Trưởng tự trọng luôn giữ phẩm cách của mình cách chính đáng.
-    Người có tinh thần trách nhiệm để hết tâm lực hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao; và sẵn sàng gánh chịu hậu quả xấu nếu có, không né tránh, không đổ lỗi cho người khác. Tinh thần trách nhiệm là biểu hiện con người có giáo dục, văn minh.
5.     CÔNG BẰNG. Công bằng là trả lại cho người ta điều gì thuộc về họ. Lãnh đạo phải công tâm.
-    Khi khen thưởng, Trưởng không chỉ căn cứ vào thành tích đơn thuần, mà còn phải tìm hiểu nguyên nhân, động lực, hoàn cảnh để ấn định mức khen thưởng. Khen quá mức, người được khen coi thường; Khen không tới mức, người được khen phân bì, bất mãn…
-    Khi phê bình hoặc kỷ luật, Trưởng cần cân nhắc phê bình hoặc chọn hình thức kỷ luật. mục đích phê bình không để hạ nhục, làm mất thể diện nhưng tôn trọng, nhằm giúp ai đó cải thiện, tiến bộ, chứ không nói cho bõ ghét, thỏa mãn tự ái. Người được phê bình đúng sẽ cảm ơn ta và cố gắng sửa chữa. ngược lại người bị kỷ luật oan sẽ bất phục, bất mãn, tiêu cực, chống đối…
-    Phân chia công tác, không phân biệt kẻ thân, người không thân. Nhưng căn cứ vào tính chất công việc và khả năng người được giao công việc, nhằm đúng người, đúng việc.
-    Trưởng thiếu công bằng là nguyên nhân của sự chia rẽ, nổi loạn.
 6.     VÂNG PHỤC. Chúa Giêsu làm gương cho ta: “Lương thực của Ta là làm theo ý Đấng đã sai Ta”.
-    Vâng phục không phải là “vâng lời tối mặt” nhưng là thái độ mau mắn hành động theo ý bề trên một cách ý thức và tự do.
-    Ý hướng cứu độ và Mục đích phong trào cũng là những cấp trên mà Huynh Trưởng có bổn phận phảo vâng phục tuyệt đối, đừng chiều theo thị hiếu, vui lòng cá nhân mà bỏ qua lẽ sống của Phong Trào.
-    Huynh Trưởng vâng phục trong tinh thần đối thoại là gương mẫu cho các em vâng phục mình.
-    Huynh Trưởng vui vẻ thi hành nhiệm vụ đã được trao phó. Nếu thắc mắc thì yêu cầu giải thích hoặc đối thoại với cấp trên cách tích cực và khiêm tốn. khi cần thiết cứ thi hành trước khiếu nại sau.
7.     KHIÊM TỐN: Thánh Kinh dạy: Thiên Chúa chống lại kẻ kiêu căng.
-    Huynh Trưởng khiêm tốn ý thức và có thái độ đúng mức trong việc đánh giá. Không quá đề cao, cũng không quá hạ thấp bản thân.
-    Người khiêm tốn không vênh vang khi thành công, hay được khen tặng; cũng không buồn, ghen khi thấy người khác hơn mình; nhưng trân trọng và sẵn sàng học tập.
-    Huynh Trưởng không kể công lao nhưng vui khi đóng góp được điều gì đó cho việc chung.
-    Huynh Trưởng không lấy lý do khiêm tốn để từ chối đảm trách 1 công việc mà mình có thể làm cho công cuộc chung. Lòng khiêm tốn có sức thuyết phục và lôi cuốn.
[Nguồn: Sổ tay Huấn luyện Huynh Trưởng cấp 1, bài 5]


ƠN GỌI VÀ SỨ MẠNG CỦA NGƯỜI HUYNH TRƯỞNG [C1]

I. ƠN GỌI LÀ GÌ
Ơn gọi là Lời Thiên Chúa ngỏ với người Ngài muốn chọn và ủy thác cho họ một công việc đặc biệt trong ý định cứu rỗi của Ngài. Trong Lịch sử Cứu Rỗi Thiên Chúa đã mời gọi nhiều người. Thời Cựu ước, Thiên Chúa gọi Abraham (St 12,1), Môisen (Xh 3,10-16) rồi đến Tiên Tri Isaia (Is 6,9), Giêrêmia (Gr 1,7), Ezêkiel (Ez 3,1.4)…
Bắt đầu công cuộc rao giảng của mình, Chúa Giêsu đã gọi Phêrô, Andrê, Gioan, Giacôbê (Mt 5,18-22); Mathêu (Lc 5, 27-28)… và các tông đồ khác. Vào thời sơ khai của Giáo Hội, Chúa đã gọi Phaolô khi ông đang trên đường bách hại Giáo Hội(Cv 9,1-6)
Như vậy, một khi ai đó được Chúa gọi, là để được Ngài trao cho một sứ mệnh, yêu cầu người đó đáp trả tùy theo hoàn cảnh riêng của mỗi người: thi hành sứ mệnh được trao. Đồng thời Ngài cũng ban ơn trợ giúp để họ hoàn thành sứ mệnh.
 II. ƠN GỌI CỦA KITÔ HỮU
Thánh Phaolô, trong thư Rôma (8,16) đã nói: “Chính Thần khí chứng thực cho thần trí chúng ta rằng chúng ta là con cái Thiên Chúa”. Thế có nghĩa là ngay từ buổi sơ khai, Hội Thánh đã ý thức rằng đời sống Kitô hữu là một ơn gọi – Ơn Gọi Nên Thánh.
Và Sắc lệnh Tông đồ Giáo dân (số 2) của Công đồng Vatican II đã nói: “Thật ra ơn gọi làm Kitô hữu tự bản chất cũng là ơn gọi làm tông đồ.” Nghĩa là: “…hết mọi tín hữu đều có bổn phận rất cao cả là hoạt động để mọi người trên khắp toàn cầu nhận biết và đón nhận Phúc Âm cứu độ của Chúa.” (TĐGD, số 3)
Trong Nhiệm thể Chúa Kitô có nhiều ân huệ, nhiều tác vụ, nhiều công việc khác nhau trong cùng một sứ mệnh: Làm cho Nước Chúa Kitô rộng mở trên khắp hoàn cầu, hầu làm vinh danh Thiên Chúa Cha. Tức là làm cho mọi người tham dự vào việc cứu rỗi…
Huynh Trưởng hay Giáo lý viên là những Kitô hữu, qua Bí tích Thánh Tẩy được tham dự vào chức vụ tư tế, ngôn sứ và vương đế của chúa kitô, được chia sẻ sứ mạng với các tông đồ. Chúa không trực tiếp mời gọi chúng ta nhưng thông qua Giáo Hội, chúng ta được mời gọi, được sai đi, được tham gia vào công tác tông đồ của Giáo Hội.
 III. SỨ MẠNG CỦA HUYNH TRƯỞNG
Sứ mạng là trách vụ mà  một người đảm nhận cách tự nguyện hay lãnh nhận từ một lý tưởng hoặc được cấp trên trao phó. Sứ mạng của Huynh Trưởng Thiếu Nhi Thánh Thể là điều khiển, dạy dỗ, giáo huấn thiếu nhi theo tôn chỉ mục đích Phong Trào. Sứ mạng ấy làm cho chúng ta trở nên những người cộng tác với Thiên Chúa trong việc hoàn hảo hóa con người. Người Huynh Trưởng tìm kiếm nước Thiên Chúa qua sự chăm sóc, nâng đỡ các em thiếu nhi được trao phó cho mình.
Phục vụ cho thiếu nhi là cách gieo mầm Lời Chúa bằng chính chứng tá sống động và gương mẫu của người Huynh Trưởng, sẽ tác động mạnh mẽ đến đời sống và suy nghĩ của các em. Ngày nay người ta tin vào những người chứng hơn là những lời rao giảng. Người Huynh Trưởng hôm nay phải có thêm một nền linh đạo vững chắc, một vốn giáo lý phong phú, đồng thời phải sống đạo cách cụ thể trong đời sống.
Ơn gọi và sứ mạng của HT TNTT thật cao đẹp, góp phần xây dựng tương lai cho xã hội và Giáo Hội đồng thời giúp định hướng đời sống cho các em, nhưng cũng gặp nhiều khó khăn vì mỗi trẻ là một thế giới riêng và giáo dục con người đòi hỏi nhiều kiên nhẫn. Chỉ vận dụng tài năng, kiến thức và lòng nhiệt thành bản thân thì chưa đủ, cần có một tấm lòng, một đời sống nội tâm sâu sắc, vững vàng qua việc cầu nguyện liên lỉ và năng kết hiệp với Chúa Giêsu Thánh Thể là vị tướng và lý tưởng của Phong Trào: “Hãy học với Ta vì Ta dịu hiền và khiêm nhượng thật trong lòng”.
Lòng nhiệt tình tông đồ thường bị cám dỗ, ngăn trở, làm cạn nhiệt huyết bởi sự nhàm chán trong công việc, những vướng bận của đời tư như bận học hành, công ăn việc làm (có khi là giả tạo), những thất bại trong việc tông đồ, sự bất đồng giữa anh chị em cùng làm việc, sự bất mãn với bề trên.
Kinh nghiệm của nhiều người cho thấy, khi “Những sự ấy” xảy ra, hãy biết rằng đã từ lâu ta làm việc Chúa mà không có Chúa. Để thi hành sứ mạng làm tông đồ cho thiếu nhi, hãy sống Lời Chúa và kết hợp với Chúa Giêsu Thánh Thể trong sự Cầu nguyện, Rước lễ, Hi sinh và Làm việc tông đồ.

[Nguồn: Sổ tay Huấn luyện Huynh trưởng cấp 1, bài 6]



LUẬT SỐNG VÀ LỜI HỨA TNTT [C1]


I. LUẬT SỐNG THIẾU NHI THÁNH THỂ
Nhằm mục đích đào luyện thiếu nhi thành những người kiện toàn và những Kitô Hữu hoàn hảo, Phong trào Thiếu Nhi Thánh Thể đưa ra Mười Điều luật sống về mặt tâm linh và nhân bản cho các em thực tập hàng ngày, để những việc đó theo thời gian thấm sâu trong đời sống, làm nền tảng đạo đức cho các em trở thành người trưởng thành.
Mười điều Luật đó là:
1. Thiếu nhi mỗi sáng dâng ngày,
Làm cho đời sống hóa nên LỜI CẦU.
2. Thiếu nhi TÔN SÙNG THÁNH THỂ;
Siêng năng Rước Lễ, Viếng Chúa hằng ngày.
3.Thiếu nhi HY SINH chịu khó,
Luôn nhìn Thánh Giá, gặp khổ vẫn vui.
4. Thiếu nhi nhờ Mẹ cố gắng;
Quyết làm gương sáng, xứng danh TÔNG ĐỒ.
5. Thiếu Nhi VÂNG LỜI cha mẹ;
Và hết những vị chỉ huy của mình.
6. Thiếu nhi NẾT NA đằm thắm;
Giữ mình trong trắng trong cách nói, làm.
7. Thiếu nhi tận tình BÁC ÁI,
Tim luôn quảng đại mới mong giúp người.
8. Thiếu nhi giữ lòng thành THÀNH THỰC;
Nói, làm đúng mực, không dối, không ngoa.
9. Thiếu nhi CHU TOÀN BỔN PHẬN;
Việc làm đúng đắn, không bỏ nửa chừng.
10. Thiếu nhi THỰC HIỆN HOA THIÊNG;
Chân thành với Chúa, cộng biên mỗi tuần.
Điều 1, 2, 3, 4 nhắc nhở các em rèn luyện đời sống thiêng liêng: Đó là đời sống Cầu nguyện, kết hợp với Chúa qua Bí tích Thánh Thể, Hy sinh vâng phục như Chúa Kitô vâng phục Chúa Cha cho đến chết trên Thập giá, theo Mẹ để làm tông đồ, để ngày càng nên hoàn hảo trong đời sống Kitô hữu.
Điều 5, 6, 7, 8, 9 nhắc các em rèn luyện đức tính: như Vâng lời, Nết na, Bác ái, Thành thực, Chu toàn bổn phận... để trở thành người con ngoan của Chúa; nên người công dân tốt, trưởng thành.
Điều 10 nhắc các em phương thế kiểm điểm đời sống hàng ngày không những giúp các em ý thức những thiếu sót cần sửa chữa, xin lỗi Chúa và anh em; mà còn giúp các em nhìn lại những việc tốt đã làm được để cám ơn Chúa, và nỗ lực tiến thêm nữa. Đó là Hoa Thiêng. Việc thực hiện hoa thiêng không bao giờ nhắm mục đích “báo cáo thành tích thi đua việc lành”
 II. LỜI HỨA THIẾU NHI THÁNH THỂ
Tuy gọi là Luật, nhưng các em được giáo dục để đón nhận Mười Điều Luật như một hành vi tự nguyện. Và các em sẽ long trọng nói lên quyết tâm thực thi Mười Điều Luật sống này trong ngày em được chính thức nhận vào Đoàn Thiếu Nhi Thánh Thể. Trong Nghi Thức Tuyên Hứa, các em sẽ hứa: siêng năng Cầu Nguyện, Rước Lễ, sẵn sàng Hy Sinh và hăng hái Làm Việc Tông Đồ.
Mỗi khi chào, các em được nhắc nhớ: 4 ngón tay khép lại tượng trưng cho 4 tôn chỉ của Thiếu nhi là CẦU NGUYỆN - RƯỚC LỄ - HY SINH – và LÀM TÔNG ĐỒ; Ngón cái khép chặt vào lòng bàn tay nói lên quyết tâm thực hiện lời cam kết của các em.
[Nguồn: Sổ tay Huấn luyện Huynh trưởng cấp 1, bài 4]





PHẦN I: PHƯƠNG PHÁP HÀNG ĐỘI TỰ TRỊ

I. CÁC THẾ ĐỨNG

1. Thế nghỉ
Chân trái đưa sang ngang (khoảng 40 cm), hai tay để sau lưng (ngang thắt lưng), bàn tay trái nắm lấy bàn tay phải.
Nếu cầm cờ: Tay trái để sau lưng, tay phải đưa cờ về phía trước và xéo ngang bên phải một góc 450, cán cờ chấm ngay đầu ngón cái của chân phải.
2. Thế nghiêm
Đứng thẳng, hai gót chân sát vào nhau, hai bàn chân mở ra một góc 450. Mắt nhìn thẳng về phía trước, hai tay xuôi tự nhiên theo người với hai bàn tay nắm hờ.
Nếu cầm cờ:   Kéo cờ sát vào người.
3. Cách đổi thế đứng
a. Dùng khẩu lệnh
Nghỉ – nghiêm.
Thiếu nhi (nghỉ) – Hy sinh (nghiêm).
b. Dùng âm lệnh          
Tiếng còi dài (tè) = nghỉ.
Tiếng còi ngắn (tích) = nghiêm.


c. Thủ lệnh: (NĐK: người điều khiển)            

Thế nghỉ
Thế nghiêm
Cách 1
Tay phải giơ cao trên đầu, bàn tay nắm
Tay phải phất mạnh xuống.
Cách 2



Tay phải NĐK nắm lại, giơ cao vòng lên đỉnh đầu, lòng bàn tay hướng về trước mặt; đồng thời tay trái nắm lại để đằng sau lưng. Chân trái đưa sang trái khoảng một bước.
Tay phải NĐK phất xuống sát thẳng bên hông phải, đồng thời chân trái rút về tư thế nghiêm.
 d. Cờ hiệu                   
Giữ cờ thế nghỉ: Nghỉ.
Kéo mạnh cờ sát vào người: Nghiêm.

II. NGỒI VÀ ĐỨNG

1. Đứng
NĐK hô
Tất cả đáp
TRỜI TA
TA ĐỨNG
HƯỚNG TÂM
LÊN


2. Ngồi
NĐK hô
Tất cả đáp
ĐẤT TA
TA NGỒI
VỀ ĐẤT
HỨA

III. CÁCH CHÀO

Đứng thế nghiêm, đưa bàn tay phải lên ngang vai, bốn ngón tay duỗi thẳng và khép lại, ngón tay cái ép vào lòng bàn tay, cùi tay ép vào người. Cánh tay trái để xuôi thẳng tự nhiên theo bên hông.
Nếu cầm cờ: Chuyển cờ sang tay trái trước khi chào, chân cờ vẫn giữ nguyên vị trí cũ.
Trong trường hợp chào cấp trên: Phải đợi cấp trên chào lại xong rồi mới hạ tay xuống. Phải giữ tư thế nghiêm cho tới khi có lệnh nghỉ.
Thủ lệnh chào được dùng khi: Đoàn sinh gặp nhau, chào đón quan khách, trình diện, chia tay, chào cấp trên.

IV. TẬP HỌP

1. Trước khi tập họp
- NĐK thổi một hồi còi dài (tè) chuẩn bị.
- Khi nghe lệnh, trại sinh ngưng mọi công việc.
- Đội trưởng tập họp lại, điểm danh quân số, chỉnh tề y phục và chuẩn bị.

2. Tập họp hàng dọc
a. Hàng dọc toàn đoàn
















 



NĐK:  Tay phải đưa thẳng lên trời[1], bàn tay như hàng dọc (ngón trỏ đưa ra).
Trại sinh:           
Chạy thẳng theo thứ tự đội tới trước NĐK, đứng cách ba bước và thành một hàng dọc.
Ổn định xong hàng ngũ, đội trưởng đội trực hô chào NĐK. Các đội trưởng giơ tay chào NĐK (các đội viên không phải chào).
b. Hàng dọc từng đội (nhiều hàng dọc)


 




NĐK: Tay phải đưa thẳng ra trước phía trước, hợp với thân mình một góc 900. Bàn tay phải mở ra, ngón tay duỗi thẳng, ép sát vào nhau, lòng bàn tay úp xuống đất. Tay trái để xuôi theo mình như ở tư thế nghiêm.

Trại sinh:           
-         Chạy thẳng tới trước NĐK, đứng cách ba bước.
-         Đội trực đứng hàng phía ngoài cùng bên trái của NĐK.
-  Ổn định xong hàng ngũ, đội trưởng đội trực hô chào NĐK. Các đội trưởng giơ tay chào NĐK (các đội viên không phải chào).
3. Tập họp hàng ngang
a. Hàng ngang toàn đoàn
















 




NĐK:   Đưa tay phải thẳng ngang vai (hợp với thân mình góc 900), bàn tay mở ra, các ngón khép lại, lòng bàn tay hướng về phía trước. Tay trái xuôi theo thân mình như ở thế nghiêm.
Trại sinh:
- Đội trực chạy dẫn đầu, sau tới thứ tự các đội chạy quanh NĐK ngược chiều kim đồng hồ, tới trước mặt NĐK (cách ba bước), sắp thành một hàng ngang.
- Đội trưởng đội trực căn hàng sao cho NĐK đứng giữa hàng.
- Khi thấy hàng đã cân, đội trưởng đội trực đứng lại so hàng đội mình và các đội khác thứ tự so hàng đội tiếp theo sau. Đội nào xong, tự động quay về phía NĐK.
- Ổn định xong hàng ngũ, đội trưởng đội trực hô chào trưởng. Tất cả trại sinh giơ tay chào NĐK.

b. Hàng ngang từng đội


 




NĐK:   Đưa tay thẳng ngang vai phải (hợp với thân mình góc 900), bàn tay mở ra, các ngón khép lại, lòng bàn tay úp xuống đất. Tay trái xuôi theo thân mình như ở thế nghiêm.
      Trại sinh:
- Đội trực chạy dẫn đầu, sau tới thứ tự các đội chạy quanh NĐK ngược chiều kim đồng hồ, tới trước mặt NĐK (cách ba bước), sắp thành một hàng ngang.
- Đội trưởng đội trực căn sao cho NĐK đứng giữa hàng đội mình. Khi thấy hàng đã cân, đội trưởng đội trực đứng lại so hàng đội mình.
- Các đội khác thứ tự xếp tiếp theo sau và cách nhau một cánh tay. Đội nào ổn định xong, tự động quay về phía NĐK.
- Ổn định xong hàng ngũ, đội trưởng đội trực hô chào trưởng. Tất cả trại sinh giơ tay chào NĐK.
4. Tập họp hình chữ U


 





NĐK: Tay phải nắm chặt, đưa ngang vai gập thành góc vuông. Tay trái xuôi theo thân mình như ở thế nghiêm.
Trại sinh:
- Đội trực chạy dẫn đầu, sau tới thứ tự các đội chạy quanh NĐK ngược chiều kim đồng hồ.
- Đội trưởng đội trực căn sao cho NĐK đứng giữa đội hình. Người đội trưởng đội trực  đứng bên trái NĐK và đội phó của đội cuối cùng đứng phía phải của NĐK, làm thành chữ U thẳng góc.
- Khi thấy hàng đã cân, đội trưởng đội trực đứng lại so hàng đội mình và các đội khác thứ tự so hàng đội tiếp theo sau. Đội nào xong, tự động quay về phía NĐK (phía trái đội mình).
- Ổn định xong hàng ngũ, đội trưởng đội trực hô chào trưởng. Tất cả trại sinh giơ tay chào NĐK.
5. Tập họp vòng tròn



 




NĐK:  Hai tay vòng qua đầu, hai bàn tay mở ra, năm ngón khép lại, lòng bàn tay úp xuống, hai đầu ngón tay giữa chạm nhau nhưng không để sát đầu. Hoặc NĐK đứng vòng hai tay trước ngực.
Trại sinh:
- Đội trực chạy dẫn đầu, sau tới thứ tự các đội chạy quanh NĐK ngược chiều kim đồng hồ.
- Các đội chạy[2] cho tới khi vòng tròn đều và có hiệu lệnh của NĐK (bằng cách bỏ tay xuống hoặc dùng hiệu còi), thì tự động đứng lại và quay mặt vào giữa vòng tròn.
- Ổn định xong hàng ngũ, đội trưởng đội trực hô chào trưởng. Tất cả trại sinh giơ tay chào NĐK.
6. Tập họp hình bán nguyệt
 






NĐK:  Tay phải vòng qua đầu (thành nửa hình tròn), hai bàn tay mở ra, năm ngón khép lại, lòng bàn tay úp xuống nhưng không để sát đầu. Tay trái xuôi theo thân mình như ở thế nghiêm.
Trại sinh:
- Đội trực chạy dẫn đầu, sau tới thứ tự các đội chạy quanh NĐK ngược chiều kim đồng hồ.
- Đội trưởng đội trực đứng lại khi tới ngang phía tay trái NĐK. Các đội sắp xếp sao cho người đội phó của đội cuối cùng đứng ngang phía tay phải của NĐK, tạo thành nửa vòng tròn lấy NĐK làm tâm.
- Để hình bán nguyệt được đều, khi đứng lại, các đội viên tự động hướng mặt vào giữa, nắm tay hai người bên cạnh so hàng cho tới khi hàng cong đều, thì buông tay và đứng ở thế nghiêm. 
- Ổn định xong hàng ngũ, đội trưởng đội trực hô chào trưởng. Tất cả trại sinh giơ tay chào NĐK.
7. Kỷ luật tập hợp
Một đoàn thể vững mạnh là một đoàn thể biết giữ kỷ luật. Chúng ta nhìn vào cách tập hợp của đoàn đó trong những buổi sinh hoạt, để biết được đoàn ấy sinh hoạt như thế nào. Vì thế, không được xem thường vấn đề này.
Khi tập hợp, tất cả các đội sinh phải luôn ghi nhớ: im lặng, nhanh nhẹn và trật tự.


[1] Có một vài nơi tập họp với cánh tay phải ra trước hợp với thân góc 900, lòng bàn tay hướng về phía trái.
[2] Đôi lúc, để tạo thêm bầu khí sinh động, các đội vừa chạy vòng tròn vừa hát. Trường hợp này đội trưởng đội trực có nhiệm vụ bắt hát.