KỸ
NĂNG SÁNG TÁC VÀ HÒ
VỚI
THƠ LỤC BÁT
I.DẪN
NHẬP :
Hò là một loại hình sinh hoạt rất đặc
thù của người Việt Nam ,
hết sức gần gũi, đơn sơ và phổ biến nhưng lại đầy tính văn hóa và nghệ thuật.
Trong sinh hoạt tập thể, một đôi câu thơ
lục bát, một vài câu hò hụi, khi được một người khởi xướng, sẽ nhanh chóng gây
bầu khí vui tươi, sôi động, lôi cuốn mọi người hưởng ứng tham gia mà không cần
đến bất cứ một phương tiện hỗ trợ nào. Đối với Linh Hoạt Viên, hay nhất là có
thể tự sáng tác thật nhanh các câu thơ lục bát rồi hò lên, đáp ứng kịp tính
thời sự nóng hổi của hoàn cảnh, con người và biến cố đang diễn ra.
Do vậy, ngoài việc thực hành một số công thức hò, linh Hoạt viên cũng
cần nắm chắc luật bằng trắc và gieo vận để sáng tác thơ lục bát, vừa hay vừa
đúng thì mới đạt mức độ nghệ thuật.
II.
LUẬT THƠ LỤC BÁT :
Các
sách giáo khoa môn Tiếng Việt của cấp học phổ thông xưa nay đều có bài
dạy cách làm thơ lục bát một cách có hệ thống khoa học.
Ơû đây, chỉ xin đơn cử một công thức tuy
đã khá xưa nhưng vẫn đắc dụng, được phổ vào trong chính đoạn thơ lục bát, vừa
dễ nhớ lại vừa dễ thuộc :
Bằng hai, sáu, tám, trắc tư,
Phải
lo giữ trọn kỳ dư mặc tình.
Bằng không giữ trọn cho minh,
Hai
trắc, bốn bình, thế lại cũng xuôi.
Tám trên, sáu dưới hòa đôi,
Sáu
còn hòa sáu chẳng lui vận nào.
Về luật bằng trắc trong thơ lục bát,
bài thơ công thức nêu trên đưa ra hai nguyên tắc cần thiết là :
+ Nguyên tắc thông thường :
……Bằng…… Trắc…… Bằng,
……Bằng……..Trắc……Bằng……Bằng.
Ví dụ : Trăm năm trong cõi người ta,
Chữ tài chữ mệnh khéo là
ghét nhau.
+ Nguyên tắc bất thường :
……Trắc ……Bằng……Bằng,
…… Trắc
….Bằng….Bằng…..Bằng.
Ví dụ : Khi chén rượu, khi cuộc cờ,
Khi xem hoa nở, khi chờ
trăng lên.
Về luật gieo vận trong thơ lục bát, bài thơ công thức đưa ra một nguyên
tắc bắt buộc là :
- Từ cuối cùng
của câu lục trên phải ăn vần với từ thứ sáu của câu bát dưới.
- Từ cuối cùng
của câu bát tiếp theo nếu có, cũng lại phải ăn vần với từ cuối cùng của câu lục
ngay sau đó.
III. CÁC CÔNG THỨC HÒ :
1.
CÒ LẢ (MIỀN
BẮC) :
Lấy ví dụ hai câu thơ Lục Bát Tin mừng
dưới đây :
Cải kia hạt
bé tí teo,
Mọc lên cây lớn, chim reo
trên cành.
Với điệu Cò Lả, đoạn thơ này sẽ được hò bằng âm giọng Hà nội như sau :
Cải kia (kia)
hạt bé (bé) tí teo,
Mọc lên (lên) cây lớ, chim
reo (là reo) trên cành.
Tình tính tang là tang tính tình,
Ơi học
trò, ơi học sinh,
Học Giáo Lý
thì có biết chăng ?
Học Giáo Lý
thì có biết chăng ?
2.
HÒ HỤI : (MIỀN
TRUNG) :
Lấy ví dụ hai câu thơ Lục Bát Nhân Bản
dưới đây :
Một đời tươi sáng ai ơi,
Nghĩ điều đoan chính, nói lời nết na.
Với điệu Hò Hụi,
đoạn thơ sẽ được hò bằng âm giọng Huế
Một đời (nì, là hù là khoan nì)
Tươi sáng (mà) ai ơi
(nì, là hù là khoan nì)
Nghĩ điều đoan chính (nì, là hù là khoan nì)
Nói lời (mà)
nết na (nì)
Là hù là khoan, khoan ơi
khoan hời hò khoan,
Là hù là khoan, khoan ơi khoan hời hò khoan.
Hết
khoan rồi tới hụi, ớ ơ hụi,
Hết hụi lại hò
khoan nì, Là hù là khoan,
A lá khoan hò
khoan, A lá khoan hò khoan.
3.
HÒ ƠI (MIỀN NAM ) :
Lấy ví dụ đoạn thơ Lục Bát Giáo Lý dưới
đây :
Thánh Gia gương
mẫu gia đình,
Gương ba đấng Thánh chúng mình gắng
theo.
Một là gương
mẫu thương yêu,
Còn hai gương mẫu
sống nghèo vẫn vui.
Đoạn thơ sẽ được hò bằng âm giọng Sài
Gòn (Xin lưu ý : nếu hò hai câu thôi thì về chủ âm cuối câu hai, nếu hò 4 câu
thì cuối câu tư mới được về chủ âm).
Hò
ơi ời ơ ới ớ ơ ơi, Thánh Gia gương mẫu gia đìn,
Gương ba đấng Thánh ớ ơ ời, hò ơi ời ơ ới ớ ơ ơi.
Gương ba đấng
Thánh, chúng mình gắng theo……
4.
HÒ DÔ TA :
Lấy ví dụ 2 câu Lục Bát dưới đây :
Đèo cao thì mặc
đèo cao,
Nhưng lòng ta quyết
còn cao hơn đèo.
Đoạn thơ sẽ được hò vui tươi và
mạnh mẽ rộn ràng như sau :
Đèo cao (dô ta) thì mặc đèo cao (dô ta)
Nhưng lòng ta quyết (dô ta) còn cao hơn đèo,
Dô tà, dô tà, là hò dô ta, dô ta !
5.
A LI HÒ LỜ :
Lấy ví dụ 2 câu thơ Lục Bát Ca Dao
dưới đây :
Công cha nghĩa
mẹ ơn thầy,
Lấy chi đền đáp dạ
này khắc sâu.
Đoạn ca dao sẽ được hò thật nhịp
nhàng như sau ;
Công cha nghĩa mẹ ơn
thầy (a li hò lờ)
Lấy chi đền đáp (a li hò lờ) dạ này khắc sâu.
Hò lơ hó lơ, lắng tai nghe
Tiếng ai đang hò
lờ, hò lo, hó lơ.
IV. LƯU Ý :
Mở đầu luôn là câu gọi : “ Ơi này anh
chị eam ơi !” hoặc “ ơ này anh hai, cô ba đó ơi!” và giữa câu thơ luôn có thêm
những từ như : mà, là, nì, ơi hỡi… làm cho điệu hò thêm duyên dáng ý vị, đậm đà
tình tự dân tộc. Do vậy cần nắm vững cách phát âm từng miền.
KỸ NĂNG SÁNG TÁC CỬ ĐIỆU
MỘT BÀI HÁT SINH HOẠT
I.PHÂN
LOẠI VÀ NHẬN ĐỊNH :
Loại bài hát suông : Trong một số
nghi thức như câu chuyện dưới cờ, câu chuyện tàn lửa ở đất trại, tĩnh tâm cầu
của giới trẻ, để giữ bầu khí thiêng liêng và một khoảnh khắc thinh lặng nội
tâm. Linh Hoạt Viên yêu cầu mọi người đứng nghiêm trang, hướng dẫn vài lời dựa
vào chủ đề, mời hát chậm rãi, vừa đủ nghe, không vỗ tay, không làm động tác hay
cử điệu.
Ví dụ: Anh em chúng ta chung một đường lên gặp gở Đức Kitô…
Bài hát có vỗ tay: Trong sinh
hoạt để gây bầu khí vui tươi nhộn nhịp. Linh Hoạt Viên có thể đề nghị vỗ tay
theo nhịp hoặc theo tiết tấu của bài hát, vỗ toàn bài hay chỉ vỗ cuối câu, hoặc
chỉ vỗ một số từ nào đó trong câu thay vì hát thành lời.
Ví dụ: Tang tang tang tình
tang tính…
Vỗ tay, vỗ tay, cùng nhau
hát mà vui cười…
Bài
hát có động tác: Trong sinh hoạt,
Linh Hoạt Viên có thể sử dụng các động tác đơn giản, dứt khoát kèm theo từng
câu của Bài hát Sinh Hoạt, thường là 4 động tác (nếu là nhịp 2/4 và 4/4) hoặc 3
động tác (nếu là nhịp ¾) cứ lập đi lập lại, ăn với các phách mạnh và nhẹ của
câu nhạc. Loại bài hát này có tác dụng gây bầu khí sôi nổi, giúp thư giãn, tỉnh
ngủ khi ngồi đã lâu.
Ví dụ: Lu lu lá lù, lù lá lu là lu la
lế…
Ta hát to hát nhỏ nhò
nho…
Bài
hát có vũ điệu: Loại bài dùng làm các tiết mục trình diễn của một nhóm, một
đội, hay một toán bạn trẻ trên các sân khấu bỏ túi, văn nghệ quần chúng, hoặc
trong các dịp đốt lửa trại. Vì mang nhiều tính nghệ thuật nên cần phải được tập
luyện nhuần nhuyễn, đạt mức độ tương đối khá về nghệ thuật.
Ví dụ: Anh em ta về cùng nhau ta
quây quần…
Tình bằng có cái trống cơm…
Bài hát có cử điệu: Loại Bài hát
Sinh Hoạt đặc biệt này cho tới nay vẫn còn ít được sử dụng. Thật ra, dạng này
rất dễ sáng tác, dễ lồng các cử điệu vào, lại dễ tập cho các tập thể đứng vòng
tròn hoặc ngồi hoặc đứng ngay trong lớp học. Mọi lứa tuổi đều có thể tham gia
một cách hư`1ng thú, sinh động, gây ấn tượng sâu xa nhờ ý nghĩa của lời hát được
minh họa bằng các cử điệu đơn sơ gần gũi với đời sống thường nhật.
Ví dụ: Người khôn xây trên đá ngôi
nhà…
Chiều nay em đi câu cá…
Có năm người ở Ô
Không May…
Thà rằng đốt lên ngọn lửa
cháy…
II.
ĐỊNH NGHĨA BÀI HÁT CÓ CỬ ĐIỆU:
Cử chỉ: Cách làm, cách minh họa, cách biểu diễn một sự vật, một sự
việc hay một ý tưởng trừu tượng bằng bàn tay.
Dáng điệu: Vẻ bề ngoài
của khuôn mặt, của toàn thân mình ăn khớp với nhịp độ của công việc, của âm
nhạc.
Vậy, Bài Hát có Cử Điệu chính là một dạng bài hát ngắn có kèm theo các
cử chỉ và dáng điệu đơn giản rõ nét, để diễn tả tối đa nội dung của từng câu,
từng ý, trong bài hát.
III.
GIÁ TRỊ CỦA CỬ ĐIỆU:
Các cử điệu mang tính cách tế nhị,
kín đáo, lại vừ phong phú về mặt biểu hiện cảm xúc của người Đông Phương (Aán
Độ, Trung Hoa, Nhật Bản, Đại Hàn, Việt Nam…) thì các cử điệu, dẫu không dùng
đến lời nói, vẫn có thể diễn đạt nhiều ý tứ sâu sắc.
Thậm chí, các cử điệu còn được
ứng dụng một cách tự nhiên trong giáo dục nhân bản và tâm ling không chỉ đối
với trẻ em mà cho cả người lớn trong các mối tương quan với chính mình, với tha
nhân, với thiên nhiên và với Thượng Đế.
Cử điệu diễn tả lòng tri ân, sự
kính trọng, quan niệm sống bác aí, vui tươi lạc quan… Cử điệu giúp bày tỏ những
tính cách và ước nguyện kín ẩn của nội tâm như vâng phục, khiêm tón, hồn nhiên
trong sáng…
Với tín ngưỡng, cử điệu có thể
thay cho một lời tuyên xưng về các nhân đức như xác tín, phó thác, yêu mến…
IV.
CHUẨN BỊ CHO MỘT BÀI HÁT CÓ CỬ ĐIỆU:
Để đạt được thành công, Linh
Hoạt Viên cần ý thức về bầu khí, về khung cảnh, về đối tượng tham gia, về mục
tiêu nhắm tớiđể chuẩn bị cho xứng hợp. Cần chú ý các yếu tố sau đây:
Về Bài Hát Sinh Hoạt: nên sáng tác hoặc chọn các bài hát ngắn, cân
phương, 4 hoặc 8 câu, có âm vận, có ý tứ đơn giản dễ thương, trải ra trong 16
trường canh, theo nhịp 2/4 tươi tắn khỏe mạnh hoặc nhịp ¾ duyên dáng nhẹ nhàng.
Về cử điệu kèm theo: mỗi câu hát chỉ nên chọn minh họa bằng 1 hoặc
2 cử điệu đơn giản, nhịp ăn khớp với tiết tấu nhạc, thường sử dụng các ngón
tay, bàn tay, cánh tay, phối hợp với động tác chân và sự di chuyển thân mình,
đồng thời hài hòa với ánh mắt và nét mặt.
Về tập thể tham dự: nên chọn hình thức vòng tròn cho sinh hoạt
ngoài trời, bán cung nếu nhắm đến một nghi thức như cầu nguyện, tĩnh tâm, cũng
đôi khi phải ứng biến ngay trong lớp học.
Về Linh Hoạt Viên: nên hát mẫu kèm theo cử điệu mẫu một cách chậm
rãi rõ ràng, tập cho tập thể, sau đó làm nháp và chính thức. Có thể cho điểm số
1-2 nếu cần có các cặp làm cử điệu đối xứng. Có thể giới thiệu ý nghĩa bài hát
trước hoặc sau khi đã cùng làm.
V.
DIỄN XUẤT CÁC CỬ ĐIỆU:
Linh Hoạt Viên đòi hỏi có
nhiều sáng kiến, biến báo và có tâm hồn sâu sắc, giàu cảm súc, nên có thể dễ
dàng chọn, sáng tác và thể hiện các cử điệu cho đúng ý nghĩa, cân đối, duyên
dáng, đạt mức nghệ thuật tối thiểu : Dưới đây là 1 số nguyên tắc cần lưu ý về
các cử điệu:
Thống nhất đầu- cuối: nhanh hay chậm, dí dõm hay trang trọng, sôi
nổi hay dịu dàng, sao cho thích hợp với nội dung và tính cách của bài hát, tuy
vậy đôi khi vẫn có thể thay đổi nhịp độ và tiết điệu để gây ấn tượng, đồng thời
kết hợp các tiếng hò, tiếng hô, tiếng gọi, băng reo để tạo bầu khí sing động.
Thứ tự trái- phải: tay trái thường làm trước tay phải, chân trái
cũng bước trước chân phải, do vậy thân mình cũng quay sang trái trước rồi quay
sang phải sau.
Đối xứng trước –sau: cử điệu thường
sẽ được đưa lên rồi lại đưa xuống đưa sang trái rồi lại đưa sang phải, vươn tới
trước rồi lại thu về phía mình, mở rộng ra ngoài rồi lại kéo vào trong.
Với 3 yếu tố căn bản nêu trên, các cử
điệu cần phải liền lạc, không đứt quãng đột ngột, tất cả làm thành một chu kỳ
tiến diễn hài hòa, đẹp mắt mà lại có ý nghĩa.
VI.
HIỆU QUẢ CỦA BÀI HÁT CÓ CỬ ĐIỆU:
Bài hát có cử điệu thường được các
linh Hoạt viên vận dụng nhằm các mục đích như sau:
Xáo trộn vị trí: một số bài có cử điệu sẽ khéo léo xáo trộn chỗ của
mỗi người trong vòng tròn một cách tự nhiên, không gượng ép, tránh được việc
cụm lại thành các Nhóm nam nữ riêng rẽ.
Gây
dựng bầu khí: bài hát có cử điệu luôn
tạo được sự vui tươi linh hoạt, làm nên tâm tình hiệp nhất trong tập thể, xóa
nhòa mọi cách biệt tuổi tác, phái tính, trình độ và tâm lý bỡ ngỡ hoặc khép kín
trong các dịp họp mặt, lửa trại, sinh hoạt vòng tròn ngoài trời.
Góp
phần giáo dục: bài hát có cử điệu
chuyển tải được các nội dung giáo dục hướng thượng và vị tha một cách nhẹ nhàng
mà lại thấm thía, tránh được kiểu nói nặng về huấn đức khô khan.
Minh họa sứ điệp: bài hát có cử điệu
trong Giáo Lý thường là các bài ca ý lực, diễn ý các câu Lời Chúa, diễn tả cách
đơn giản các mệnh đề tín lý và luân lý, có thể dùng trong sinh hoạt hoặc cầu
nguyện ở đầu, ở giữa hay ở cuối tiết dạy Giáo Lý.
Bài thực tập 1: GẶP NHAU
1.
Nay ta về gặp nhau nơi đây.
Tình thân ái trào dâng tràn đầy.
2.
Nay ta về vòng tay
trong tay.
Cho
yêu thương sáng ngời chốn đây.
3.
Thắp sáng (2) –
Sáng lên cho đời.
Thắp
sáng (2) – Sáng lên cho người.
4.
Niềm tin (2) – Yêu thương bao la.
Niềm
tin (2) – Mến thương đậm đà.
* Cử điệu:
Vòng tròn, đứng thành cặp : nam trong, nữ
ngoài.
1.
Bước theo nhịp, bắt
tréo chân. Nam bước chân trái tréo qua phải, nữ ngược lại tay vung theo nhịp,
ngược với thân.
2.
Nắm tay phải, nhún
xoay tròn, nam xoay bên phải của nữ.
3.
Hai tay buông lỏng
giơ cao, từ từ bước vào lùi ra (đi xuyến).
4.
Uùp hai tay lên vai
nhún theo nhịp tại chỗ, xoay tròn đến chữ cuối, nam đổi sang múa với người khác.
Bài thực tập 2: CÙNG MÚA CA
1.
Cùng nhau múa chung
quanh vòng cùng nhảy múa cùng ca.
2.
Cùng nhảy múa xung
quanh vòng ta cùng nhau múa đều.
3.
Nắm tay nhau, bắt
tay nhau ta cùng vui múa ca.
4.
Nắm tay nhau, bắt
tay nhau, ta cùng vui múa đều.
* Cử điệu:
Vòng tròn như bài 1, nam nữ quay mặt vào nhau.
1.2. Nam đi bên phải nữ,
hai tay lên hông đi nhúnnhịp 2/4, nhích vai theo chân.
Nữ để tay bên phải đi nhún theo nhịp, bước
lên 4 bước, trở về 4 bước.
3.
Đưa tay phải ra nắm
vào nhau nhảy lên theo nhịp (3 cái đổi tay) đến chữ” múa ca” nữ xoay tại chỗ.
4.
Giống như 3, cuối
nam xoay qua bên trái và đổi chỗ sang phải múa với người bên cạnh.
Bài thực tập 3 : CHÁT CHẠT BUM
1.
Chát Chạt bum bô la
bùm chát chát.
2.
Chát chạt bum bô lá
bum la bùm chạt.
3.
Chát chạt bum bô la
bùm chat chat.
4.
Chạt chát bum bô lá
bum la bùm chạt.
* Cử điệu:
1.
nam tay vỗ đều để
bên mặt trái, chân trái khụy xuống, chân phải thẳng ra đi nhích vào vòng tròn
phía trong, tới chữ cuối câu đầu bật lên (theo kiểu múa dân tộc).
2.
Ngược lại (1) đi
xoay ra ngoài. Nữ: 2 tay lên hông bước 4 bước. Bước đá gót theo nhịp đi và lùi
lại 4 bước.
3.
Hai người nắm tay
nhau, xoay vòng tròn (nắm tay trái) đi kiểu đá gót chân đến kết bài.
4.
Nữ ngồi xuống, đổi
kiểu khác (bắt đầu múa lại).
* Lưu ý :
+ Bài múa có cả nam lẫn nữ thì nam chủ động :
nếu đưa tay thì nam đưa tay mời trước ; nếu xoay đổi chổ thì nam quay đổi sang
múa với người khác
+ Thường ta tập múa theo vị trí đứng vòng
tròn, cần chỉ cho các em bước tới bước lui hay xoay thì làm giống nhau để tráh
đụng vào nhau, gây lộn xộn không đẹp.
+ Khi có thời gian nên tập trước cho các em trưởng,
phó để các em có trách nhiệm phổ biến lại cho từng đội, phân tán mỏng rất dễ
thực hiện và dễ thành công.
KỸ
NĂNG SÁNG TÁC VÀ HÒ
VỚI
THƠ LỤC BÁT
I.DẪN
NHẬP :
Hò là một loại hình sinh hoạt rất đặc
thù của người Việt Nam ,
hết sức gần gũi, đơn sơ và phổ biến nhưng lại đầy tính văn hóa và nghệ thuật.
Trong sinh hoạt tập thể, một đôi câu thơ
lục bát, một vài câu hò hụi, khi được một người khởi xướng, sẽ nhanh chóng gây
bầu khí vui tươi, sôi động, lôi cuốn mọi người hưởng ứng tham gia mà không cần
đến bất cứ một phương tiện hỗ trợ nào. Đối với Linh Hoạt Viên, hay nhất là có
thể tự sáng tác thật nhanh các câu thơ lục bát rồi hò lên, đáp ứng kịp tính
thời sự nóng hổi của hoàn cảnh, con người và biến cố đang diễn ra.
Do vậy, ngoài việc thực hành một số công thức hò, linh Hoạt viên cũng
cần nắm chắc luật bằng trắc và gieo vận để sáng tác thơ lục bát, vừa hay vừa
đúng thì mới đạt mức độ nghệ thuật.
II.
LUẬT THƠ LỤC BÁT :
Các
sách giáo khoa môn Tiếng Việt của cấp học phổ thông xưa nay đều có bài
dạy cách làm thơ lục bát một cách có hệ thống khoa học.
Ơû đây, chỉ xin đơn cử một công thức tuy
đã khá xưa nhưng vẫn đắc dụng, được phổ vào trong chính đoạn thơ lục bát, vừa
dễ nhớ lại vừa dễ thuộc :
Bằng hai, sáu, tám, trắc tư,
Phải
lo giữ trọn kỳ dư mặc tình.
Bằng không giữ trọn cho minh,
Hai
trắc, bốn bình, thế lại cũng xuôi.
Tám trên, sáu dưới hòa đôi,
Sáu
còn hòa sáu chẳng lui vận nào.
Về luật bằng trắc trong thơ lục bát,
bài thơ công thức nêu trên đưa ra hai nguyên tắc cần thiết là :
+ Nguyên tắc thông thường :
……Bằng…… Trắc…… Bằng,
……Bằng……..Trắc……Bằng……Bằng.
Ví dụ : Trăm năm trong cõi người ta,
Chữ tài chữ mệnh khéo là
ghét nhau.
+ Nguyên tắc bất thường :
……Trắc ……Bằng……Bằng,
…… Trắc
….Bằng….Bằng…..Bằng.
Ví dụ : Khi chén rượu, khi cuộc cờ,
Khi xem hoa nở, khi chờ
trăng lên.
Về luật gieo vận trong thơ lục bát, bài thơ công thức đưa ra một nguyên
tắc bắt buộc là :
- Từ cuối cùng
của câu lục trên phải ăn vần với từ thứ sáu của câu bát dưới.
- Từ cuối cùng
của câu bát tiếp theo nếu có, cũng lại phải ăn vần với từ cuối cùng của câu lục
ngay sau đó.
III. CÁC CÔNG THỨC HÒ :
1.
CÒ LẢ (MIỀN
BẮC) :
Lấy ví dụ hai câu thơ Lục Bát Tin mừng
dưới đây :
Cải kia hạt
bé tí teo,
Mọc lên cây lớn, chim reo
trên cành.
Với điệu Cò Lả, đoạn thơ này sẽ được hò bằng âm giọng Hà nội như sau :
Cải kia (kia)
hạt bé (bé) tí teo,
Mọc lên (lên) cây lớ, chim
reo (là reo) trên cành.
Tình tính tang là tang tính tình,
Ơi học
trò, ơi học sinh,
Học Giáo Lý
thì có biết chăng ?
Học Giáo Lý
thì có biết chăng ?
2.
HÒ HỤI : (MIỀN
TRUNG) :
Lấy ví dụ hai câu thơ Lục Bát Nhân Bản
dưới đây :
Một đời tươi sáng ai ơi,
Nghĩ điều đoan chính, nói lời nết na.
Với điệu Hò Hụi,
đoạn thơ sẽ được hò bằng âm giọng Huế
Một đời (nì, là hù là khoan nì)
Tươi sáng (mà) ai ơi
(nì, là hù là khoan nì)
Nghĩ điều đoan chính (nì, là hù là khoan nì)
Nói lời (mà)
nết na (nì)
Là hù là khoan, khoan ơi
khoan hời hò khoan,
Là hù là khoan, khoan ơi khoan hời hò khoan.
Hết
khoan rồi tới hụi, ớ ơ hụi,
Hết hụi lại hò
khoan nì, Là hù là khoan,
A lá khoan hò
khoan, A lá khoan hò khoan.
3.
HÒ ƠI (MIỀN NAM ) :
Lấy ví dụ đoạn thơ Lục Bát Giáo Lý dưới
đây :
Thánh Gia gương
mẫu gia đình,
Gương ba đấng Thánh chúng mình gắng
theo.
Một là gương
mẫu thương yêu,
Còn hai gương mẫu
sống nghèo vẫn vui.
Đoạn thơ sẽ được hò bằng âm giọng Sài
Gòn (Xin lưu ý : nếu hò hai câu thôi thì về chủ âm cuối câu hai, nếu hò 4 câu
thì cuối câu tư mới được về chủ âm).
Hò
ơi ời ơ ới ớ ơ ơi, Thánh Gia gương mẫu gia đìn,
Gương ba đấng Thánh ớ ơ ời, hò ơi ời ơ ới ớ ơ ơi.
Gương ba đấng
Thánh, chúng mình gắng theo……
4.
HÒ DÔ TA :
Lấy ví dụ 2 câu Lục Bát dưới đây :
Đèo cao thì mặc
đèo cao,
Nhưng lòng ta quyết
còn cao hơn đèo.
Đoạn thơ sẽ được hò vui tươi và
mạnh mẽ rộn ràng như sau :
Đèo cao (dô ta) thì mặc đèo cao (dô ta)
Nhưng lòng ta quyết (dô ta) còn cao hơn đèo,
Dô tà, dô tà, là hò dô ta, dô ta !
5.
A LI HÒ LỜ :
Lấy ví dụ 2 câu thơ Lục Bát Ca Dao
dưới đây :
Công cha nghĩa
mẹ ơn thầy,
Lấy chi đền đáp dạ
này khắc sâu.
Đoạn ca dao sẽ được hò thật nhịp
nhàng như sau ;
Công cha nghĩa mẹ ơn
thầy (a li hò lờ)
Lấy chi đền đáp (a li hò lờ) dạ này khắc sâu.
Hò lơ hó lơ, lắng tai nghe
Tiếng ai đang hò
lờ, hò lo, hó lơ.
IV. LƯU Ý :
Mở đầu luôn là câu gọi : “ Ơi này anh
chị eam ơi !” hoặc “ ơ này anh hai, cô ba đó ơi!” và giữa câu thơ luôn có thêm
những từ như : mà, là, nì, ơi hỡi… làm cho điệu hò thêm duyên dáng ý vị, đậm đà
tình tự dân tộc. Do vậy cần nắm vững cách phát âm từng miền.
KỸ NĂNG SÁNG TÁC CỬ ĐIỆU
MỘT BÀI HÁT SINH HOẠT
I.PHÂN
LOẠI VÀ NHẬN ĐỊNH :
Loại bài hát suông : Trong một số
nghi thức như câu chuyện dưới cờ, câu chuyện tàn lửa ở đất trại, tĩnh tâm cầu
của giới trẻ, để giữ bầu khí thiêng liêng và một khoảnh khắc thinh lặng nội
tâm. Linh Hoạt Viên yêu cầu mọi người đứng nghiêm trang, hướng dẫn vài lời dựa
vào chủ đề, mời hát chậm rãi, vừa đủ nghe, không vỗ tay, không làm động tác hay
cử điệu.
Ví dụ: Anh em chúng ta chung một đường lên gặp gở Đức Kitô…
Bài hát có vỗ tay: Trong sinh
hoạt để gây bầu khí vui tươi nhộn nhịp. Linh Hoạt Viên có thể đề nghị vỗ tay
theo nhịp hoặc theo tiết tấu của bài hát, vỗ toàn bài hay chỉ vỗ cuối câu, hoặc
chỉ vỗ một số từ nào đó trong câu thay vì hát thành lời.
Ví dụ: Tang tang tang tình
tang tính…
Vỗ tay, vỗ tay, cùng nhau
hát mà vui cười…
Bài
hát có động tác: Trong sinh hoạt,
Linh Hoạt Viên có thể sử dụng các động tác đơn giản, dứt khoát kèm theo từng
câu của Bài hát Sinh Hoạt, thường là 4 động tác (nếu là nhịp 2/4 và 4/4) hoặc 3
động tác (nếu là nhịp ¾) cứ lập đi lập lại, ăn với các phách mạnh và nhẹ của
câu nhạc. Loại bài hát này có tác dụng gây bầu khí sôi nổi, giúp thư giãn, tỉnh
ngủ khi ngồi đã lâu.
Ví dụ: Lu lu lá lù, lù lá lu là lu la
lế…
Ta hát to hát nhỏ nhò
nho…
Bài
hát có vũ điệu: Loại bài dùng làm các tiết mục trình diễn của một nhóm, một
đội, hay một toán bạn trẻ trên các sân khấu bỏ túi, văn nghệ quần chúng, hoặc
trong các dịp đốt lửa trại. Vì mang nhiều tính nghệ thuật nên cần phải được tập
luyện nhuần nhuyễn, đạt mức độ tương đối khá về nghệ thuật.
Ví dụ: Anh em ta về cùng nhau ta
quây quần…
Tình bằng có cái trống cơm…
Bài hát có cử điệu: Loại Bài hát
Sinh Hoạt đặc biệt này cho tới nay vẫn còn ít được sử dụng. Thật ra, dạng này
rất dễ sáng tác, dễ lồng các cử điệu vào, lại dễ tập cho các tập thể đứng vòng
tròn hoặc ngồi hoặc đứng ngay trong lớp học. Mọi lứa tuổi đều có thể tham gia
một cách hư`1ng thú, sinh động, gây ấn tượng sâu xa nhờ ý nghĩa của lời hát được
minh họa bằng các cử điệu đơn sơ gần gũi với đời sống thường nhật.
Ví dụ: Người khôn xây trên đá ngôi
nhà…
Chiều nay em đi câu cá…
Có năm người ở Ô
Không May…
Thà rằng đốt lên ngọn lửa
cháy…
II.
ĐỊNH NGHĨA BÀI HÁT CÓ CỬ ĐIỆU:
Cử chỉ: Cách làm, cách minh họa, cách biểu diễn một sự vật, một sự
việc hay một ý tưởng trừu tượng bằng bàn tay.
Dáng điệu: Vẻ bề ngoài
của khuôn mặt, của toàn thân mình ăn khớp với nhịp độ của công việc, của âm
nhạc.
Vậy, Bài Hát có Cử Điệu chính là một dạng bài hát ngắn có kèm theo các
cử chỉ và dáng điệu đơn giản rõ nét, để diễn tả tối đa nội dung của từng câu,
từng ý, trong bài hát.
III.
GIÁ TRỊ CỦA CỬ ĐIỆU:
Các cử điệu mang tính cách tế nhị,
kín đáo, lại vừ phong phú về mặt biểu hiện cảm xúc của người Đông Phương (Aán
Độ, Trung Hoa, Nhật Bản, Đại Hàn, Việt Nam…) thì các cử điệu, dẫu không dùng
đến lời nói, vẫn có thể diễn đạt nhiều ý tứ sâu sắc.
Thậm chí, các cử điệu còn được
ứng dụng một cách tự nhiên trong giáo dục nhân bản và tâm ling không chỉ đối
với trẻ em mà cho cả người lớn trong các mối tương quan với chính mình, với tha
nhân, với thiên nhiên và với Thượng Đế.
Cử điệu diễn tả lòng tri ân, sự
kính trọng, quan niệm sống bác aí, vui tươi lạc quan… Cử điệu giúp bày tỏ những
tính cách và ước nguyện kín ẩn của nội tâm như vâng phục, khiêm tón, hồn nhiên
trong sáng…
Với tín ngưỡng, cử điệu có thể
thay cho một lời tuyên xưng về các nhân đức như xác tín, phó thác, yêu mến…
IV.
CHUẨN BỊ CHO MỘT BÀI HÁT CÓ CỬ ĐIỆU:
Để đạt được thành công, Linh
Hoạt Viên cần ý thức về bầu khí, về khung cảnh, về đối tượng tham gia, về mục
tiêu nhắm tớiđể chuẩn bị cho xứng hợp. Cần chú ý các yếu tố sau đây:
Về Bài Hát Sinh Hoạt: nên sáng tác hoặc chọn các bài hát ngắn, cân
phương, 4 hoặc 8 câu, có âm vận, có ý tứ đơn giản dễ thương, trải ra trong 16
trường canh, theo nhịp 2/4 tươi tắn khỏe mạnh hoặc nhịp ¾ duyên dáng nhẹ nhàng.
Về cử điệu kèm theo: mỗi câu hát chỉ nên chọn minh họa bằng 1 hoặc
2 cử điệu đơn giản, nhịp ăn khớp với tiết tấu nhạc, thường sử dụng các ngón
tay, bàn tay, cánh tay, phối hợp với động tác chân và sự di chuyển thân mình,
đồng thời hài hòa với ánh mắt và nét mặt.
Về tập thể tham dự: nên chọn hình thức vòng tròn cho sinh hoạt
ngoài trời, bán cung nếu nhắm đến một nghi thức như cầu nguyện, tĩnh tâm, cũng
đôi khi phải ứng biến ngay trong lớp học.
Về Linh Hoạt Viên: nên hát mẫu kèm theo cử điệu mẫu một cách chậm
rãi rõ ràng, tập cho tập thể, sau đó làm nháp và chính thức. Có thể cho điểm số
1-2 nếu cần có các cặp làm cử điệu đối xứng. Có thể giới thiệu ý nghĩa bài hát
trước hoặc sau khi đã cùng làm.
V.
DIỄN XUẤT CÁC CỬ ĐIỆU:
Linh Hoạt Viên đòi hỏi có
nhiều sáng kiến, biến báo và có tâm hồn sâu sắc, giàu cảm súc, nên có thể dễ
dàng chọn, sáng tác và thể hiện các cử điệu cho đúng ý nghĩa, cân đối, duyên
dáng, đạt mức nghệ thuật tối thiểu : Dưới đây là 1 số nguyên tắc cần lưu ý về
các cử điệu:
Thống nhất đầu- cuối: nhanh hay chậm, dí dõm hay trang trọng, sôi
nổi hay dịu dàng, sao cho thích hợp với nội dung và tính cách của bài hát, tuy
vậy đôi khi vẫn có thể thay đổi nhịp độ và tiết điệu để gây ấn tượng, đồng thời
kết hợp các tiếng hò, tiếng hô, tiếng gọi, băng reo để tạo bầu khí sing động.
Thứ tự trái- phải: tay trái thường làm trước tay phải, chân trái
cũng bước trước chân phải, do vậy thân mình cũng quay sang trái trước rồi quay
sang phải sau.
Đối xứng trước –sau: cử điệu thường
sẽ được đưa lên rồi lại đưa xuống đưa sang trái rồi lại đưa sang phải, vươn tới
trước rồi lại thu về phía mình, mở rộng ra ngoài rồi lại kéo vào trong.
Với 3 yếu tố căn bản nêu trên, các cử
điệu cần phải liền lạc, không đứt quãng đột ngột, tất cả làm thành một chu kỳ
tiến diễn hài hòa, đẹp mắt mà lại có ý nghĩa.
VI.
HIỆU QUẢ CỦA BÀI HÁT CÓ CỬ ĐIỆU:
Bài hát có cử điệu thường được các
linh Hoạt viên vận dụng nhằm các mục đích như sau:
Xáo trộn vị trí: một số bài có cử điệu sẽ khéo léo xáo trộn chỗ của
mỗi người trong vòng tròn một cách tự nhiên, không gượng ép, tránh được việc
cụm lại thành các Nhóm nam nữ riêng rẽ.
Gây
dựng bầu khí: bài hát có cử điệu luôn
tạo được sự vui tươi linh hoạt, làm nên tâm tình hiệp nhất trong tập thể, xóa
nhòa mọi cách biệt tuổi tác, phái tính, trình độ và tâm lý bỡ ngỡ hoặc khép kín
trong các dịp họp mặt, lửa trại, sinh hoạt vòng tròn ngoài trời.
Góp
phần giáo dục: bài hát có cử điệu
chuyển tải được các nội dung giáo dục hướng thượng và vị tha một cách nhẹ nhàng
mà lại thấm thía, tránh được kiểu nói nặng về huấn đức khô khan.
Minh họa sứ điệp: bài hát có cử điệu
trong Giáo Lý thường là các bài ca ý lực, diễn ý các câu Lời Chúa, diễn tả cách
đơn giản các mệnh đề tín lý và luân lý, có thể dùng trong sinh hoạt hoặc cầu
nguyện ở đầu, ở giữa hay ở cuối tiết dạy Giáo Lý.
Bài thực tập 1: GẶP NHAU
1.
Nay ta về gặp nhau nơi đây.
Tình thân ái trào dâng tràn đầy.
2.
Nay ta về vòng tay
trong tay.
Cho
yêu thương sáng ngời chốn đây.
3.
Thắp sáng (2) –
Sáng lên cho đời.
Thắp
sáng (2) – Sáng lên cho người.
4.
Niềm tin (2) – Yêu thương bao la.
Niềm
tin (2) – Mến thương đậm đà.
* Cử điệu:
Vòng tròn, đứng thành cặp : nam trong, nữ
ngoài.
1.
Bước theo nhịp, bắt
tréo chân. Nam bước chân trái tréo qua phải, nữ ngược lại tay vung theo nhịp,
ngược với thân.
2.
Nắm tay phải, nhún
xoay tròn, nam xoay bên phải của nữ.
3.
Hai tay buông lỏng
giơ cao, từ từ bước vào lùi ra (đi xuyến).
4.
Uùp hai tay lên vai
nhún theo nhịp tại chỗ, xoay tròn đến chữ cuối, nam đổi sang múa với người khác.
Bài thực tập 2: CÙNG MÚA CA
1.
Cùng nhau múa chung
quanh vòng cùng nhảy múa cùng ca.
2.
Cùng nhảy múa xung
quanh vòng ta cùng nhau múa đều.
3.
Nắm tay nhau, bắt
tay nhau ta cùng vui múa ca.
4.
Nắm tay nhau, bắt
tay nhau, ta cùng vui múa đều.
* Cử điệu:
Vòng tròn như bài 1, nam nữ quay mặt vào nhau.
1.2. Nam đi bên phải nữ,
hai tay lên hông đi nhúnnhịp 2/4, nhích vai theo chân.
Nữ để tay bên phải đi nhún theo nhịp, bước
lên 4 bước, trở về 4 bước.
3.
Đưa tay phải ra nắm
vào nhau nhảy lên theo nhịp (3 cái đổi tay) đến chữ” múa ca” nữ xoay tại chỗ.
4.
Giống như 3, cuối
nam xoay qua bên trái và đổi chỗ sang phải múa với người bên cạnh.
Bài thực tập 3 : CHÁT CHẠT BUM
1.
Chát Chạt bum bô la
bùm chát chát.
2.
Chát chạt bum bô lá
bum la bùm chạt.
3.
Chát chạt bum bô la
bùm chat chat.
4.
Chạt chát bum bô lá
bum la bùm chạt.
* Cử điệu:
1.
nam tay vỗ đều để
bên mặt trái, chân trái khụy xuống, chân phải thẳng ra đi nhích vào vòng tròn
phía trong, tới chữ cuối câu đầu bật lên (theo kiểu múa dân tộc).
2.
Ngược lại (1) đi
xoay ra ngoài. Nữ: 2 tay lên hông bước 4 bước. Bước đá gót theo nhịp đi và lùi
lại 4 bước.
3.
Hai người nắm tay
nhau, xoay vòng tròn (nắm tay trái) đi kiểu đá gót chân đến kết bài.
4.
Nữ ngồi xuống, đổi
kiểu khác (bắt đầu múa lại).
* Lưu ý :
+ Bài múa có cả nam lẫn nữ thì nam chủ động :
nếu đưa tay thì nam đưa tay mời trước ; nếu xoay đổi chổ thì nam quay đổi sang
múa với người khác
+ Thường ta tập múa theo vị trí đứng vòng
tròn, cần chỉ cho các em bước tới bước lui hay xoay thì làm giống nhau để tráh
đụng vào nhau, gây lộn xộn không đẹp.
+ Khi có thời gian nên tập trước cho các em trưởng,
phó để các em có trách nhiệm phổ biến lại cho từng đội, phân tán mỏng rất dễ
thực hiện và dễ thành công.