Chúng
ta đã đặt vấn đề dạy Giáo Lý theo cách thức của Đức Giê-su Ki-tô. Vậy không gì
hơn là chúng ta hãy phân tích để học hỏi đường lối dạy Giáo Lý của chính Đức
Giê-su Ki-tô đã áp dụng. Xin liệt kê 8 nguyên tắc rất đơn giản mà hiệu nghiệm:
I. TRỰC TIẾP NÓI VỚI NGƯỜI NGHE:
Đức
Giê-su Ki-tô quả thật là một con người của quần chúng. Người đi khắp nơi trong
suốt cả cuộc đời để gặp gỡ quần chúng. Chung quanh Người luôn có một đám đông
tìm đến để lắng nghe, và Người đã chạnh lòng thương họ, không quản ngại giảng dạy
cho họ, nhiều khi đến kiệt sức.
Trên
núi, trong hoang địa, dưới thuyền, ngoài bãi biển, trong Hội Đường, nơi Đền Thờ
Giê-ru-sa-lem, tại bàn ăn, giữa tiệc cưới, ở mọi góc phố, và cả trên Thập Giá, ở
đâu Người cũng có những lời giảng dạy về Chúa Cha, về Nước Trời, về giới răn
Yêu Thương, về lòng tha thứ...
Người
tiếp xúc với đủ mọi hạng người: kẻ giàu người nghèo, kẻ bệnh tật, người đang gặp
khổ đau, người Pha-ri-sêu, các Luật Sĩ, sĩ quan Rô-ma, người miền Sa-ma-ri, các
cô gái điếm, người thu thuế, kẻ tử tù... miễn là họ có lòng chân thành sám hối,
muốn đi theo con đường Đức Giê-su mời gọi.
Đức
Giê-su không hề biên soạn và viết ra một tác phẩm nào cho mục đích giảng dạy
gián tiếp, Người trực tiếp nói với mọi người, đối thoại một cách ân cần, khi nhỏ
nhẹ, lúc hùng hồn, và đặc biệt là yêu quý trẻ em lúc nào cũng quấn quít bên Người
( x. Mt 18, 2; Mc 10, 14).
II. TRÌNH BÀY VỪA TẦM NGƯỜI NGHE:
Đa
số thính giả của Đức Giê-su là người bình dân chất phác, lao động chân tay, mù
chữ hoặc ít học. Người đã dùng ngôn ngữ của chính họ và những hình ảnh minh họa gần gũi dễ hiểu
để giảng dạy và trò chuyện thân tình với họ, tận tụy giải đáp
các thắc mắc của họ và không tiếc lời khen ngợi, khích lệ những ai có thành tâm
thiện chí.
Ngược
lại, đối với những một số ít người có học, hoặc khi họ muốn tranh luận bắt
bẻ, Đức Giê-su cũng sẵn sàng lý luận, trưng dẫn Kinh Thánh (x. Mt 11, 10; 12,
40; 15, 4. 8) vận dụng Luật Mô-sê ( x. Mt 5, 21. 27. 31. 33. 38. 43), viện lẽ
khôn ngoan trong cuộc sống ( x. Mt 5, 15; 6, 24; 12, 25. 29. 33; Lc 6, 39 – 40;
48 – 49) để thuyết phục họ, hoặc thẳng thắn phi bác, cho thấy họ đã lầm lạc hay
ngoan cố.
Khi
muốn dạy một chân lý cao siêu, một mầu nhiệm khó hiểu, mới lạ và khó tin, Đức
Giê-su đã chọn những sự việc và sự vật cụ thể, mượn những khái niệm gần
gũi, những hình ảnh quen thuộc, những kinh nghiệm sống động của đời thường làm
dẫn chứng hay minh họa.
Có
thể nói, Người đã vận dụng phương pháp quy nạp đơn sơ hơn là phương pháp diễn
giải phức tạp; dùng lối ẩn dụ so sánh để đi tới kết luận hơn là chọn những luận
lý kinh viện bác học.
Đức
Giê-su còn thường dùng các dụ ngôn ( Paraboles) để giảng dạy. Thay cho những định
nghĩa trừu tượng, các chân lý và mầu nhiệm đã được gói ghém trong một câu truyện
kể ngắn gọn, với đầy đủ tình tiết hấp dẫn mà hợp lý hợp tình, nghe xong là tự
khắc hiểu được bài học, tự mình rút ra được một số yếu tố siêu việt của Nước Trời
và có thể áp dụng ngay vào đời sống thường nhật hiện tại.
IV. ĐÚC KẾT THÀNH NHỮNG CÂU DỄ NHỚ:
Sau
khi đã diễn giải một chân lý, một mầu nhiệm, một giới luật mới để giúp người
nghe hiểu được một cách sáng tỏ, bao giờ Đức Giê-su cũng có những lời đúc kết
ngắn gọn và giản dị để giúp họ ghi nhớ sâu xa và thấm thía, đồng thời sẵn sàng
đem ra thực hành một cách dễ dàng.
Xin
đơn cử những câu kết luận như thế trong Tin Mừng:
·
Về
việc cầu nguyện: “Ai xin thì sẽ được, ai tìm thì sẽ thấy, ai gõ cửa thì sẽ mở cho” ( Lc 11, 9).
·
Về
đức khiêm tốn: “Ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống, ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên” ( Lc 14, 11).
·
Về
tinh thần phục vụ: “Thầy đến để phục vụ, chứ không phải để được phục vụ” ( Mc 10, 41).
·
Về
sự bền đỗ: “Kẻ được gọi thì nhiều, nhưng người được chọn thì lại ít” ( Mt 22, 14).
·
Về
lòng tình yêu thương: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” ( Ga 15, 12).
·
Về
sự từ bỏ: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo” ( Lc 9,
23).
V. NHẮC LẠI DƯỚI NHIỀU HÌNH THỨC:
Khi
trình bày một chân lý hay một điểm Giáo Lý, Đức Giê-su thường nhắc đi nhắc lại dưới nhiều hình thức
khác nhau. Như vậy, vấn đề càng dễ nhớ, dễ hiểu, dễ thực hành
trong đời sống hơn mà lại không sợ nhàm chán đơn điệu. Hơn nữa, một lần vấn đề
được nhắc lại, vẫn có dịp để thêm bổ
túc những khía cạnh mới.
Ví
dụ, để minh họa cho lòng Chúa yêu thương những người tội lỗi, luôn chờ mong họ
hoán cải, Đức Giê-su đã dùng rất nhiều dụ ngôn khác nhau mà Tin Mừng theo Thánh
Lu-ca đã ghi lại trong toàn bộ chương 15 như: Dụ Ngôn Con Chiên Bị Mất, Dụ Ngôn
Đồng Bạc Bị Mất, Dụ Ngôn Người Cha Nhân Hậu ( x. Lc 15, 1 – 32).
VI. TIẾN TỪNG BƯỚC THEO TRÌNH ĐỘ CỦA NGƯỜI NGHE:
Một
chân lý cao siêu, một mầu nhiệm khó hiểu không thể trong một bài dạy, trong một
lần học mà có thể đón nhận trọn vẹn ngay được. “Mưa lâu thấm đất”. Rõ ràng cần phải có thời
gian để thấm thía. Vì thế, Đức Giê-su đã luôn luôn vén tỏ mầu nhiệm
Nước Trời, Nước Thiên Chúa từng bước, từng chút một. Mỗi lần giảng dạy, Người lại bổ túc thêm một
ít, đào sâu và mở rộng thêm những gì đã dạy trước đó.
Lấy
ví dụ, Đức Giê-su đã từ từ tỏ mình cho các môn đệ rằng chính là Đấng Thiên Sai,
là Đấng Cứu Thế, để rồi cuối cùng, đến lúc chín muồi, Người mới tự giới thiệu
Người chính là Con Thiên Chúa trong biến cố Hiển Dung trên một ngọn núi cao (
x. Mc 9, 2 – 8 ).
Một
ví dụ khác: Đức Giê-su đã 3 lần tiên báo về cuộc thương khó và cái chết Người sẽ
phải chịu để chuẩn bị cho các môn đệ có thể bình tĩnh đón nhận biến cố Vượt Qua
đau xót nhưng cần thiết này ( x. Mc 8, 31; 9, 30 – 32; 10, 32 – 34 ).
VII. DÙNG KINH THÁNH ĐỂ MINH CHỨNG:
Đức
Giê-su thường trích dẫn những lời Thánh Kinh để giúp người nghe dễ tin và hiểu sâu hơn những lời
Người giảng dạy.
Những
lời Kinh Thánh ấy còn minh chứng rằng: Người đến là để hoàn tất mọi sự. Những lời
Người nói, những việc Người làm vừa nối tiếp, vừa thực hiện những gì đã được
tiên báo trong Cựu Ước. Người chính là Đấng mở ra thời Tân Ước, thực hiện mọi lời
hứa và mọi ý định của Thiên Chúa đối với Dân của Người ( x. Mt 11, 10; 12, 40;
15, 4. 8).
VIII. VỪA GIẢNG DẠY VỪA CẢM HÓA:
Trong
khi diễn giải mầu nhiệm Nước Trời, Đức Giê-su cũng gợi lên nơi người nghe lòng yêu thích, khao
khát đón nhận chân lý và sẵn sàng thay đổi cuộc sống.
Đã
có một số không hưởng ứng lời mời gọi ấy ( như chàng thanh niên giàu có còn tiếc
rẻ của cải đời này trong Mc 10, 17 – 22), nhưng ngược lại đã có rất đông người đã được cảm hóa
để đổi đời ( như: người đàn bà xứ Sa-ma-ri trong Ga 4, 7 – 42;
người phụ nữ ngoại tình trong Ga 8, 3 – 11; người mù từ thuở mới sinh trong Ga
9, 1 – 38; người bệnh liệt giường vác chõng ra về trong Ga 5, 5 – 14; ông
Da-kêu trong Lc 19, 1 – 10; người gian phi trên thập giá trong Lc 23, 39 –
43... )
IX. KẾT LUẬN:
Đã
từng có một Hội Nghị Quốc Tế, thuần túy phi tôn giáo, được tổ chức đặc biệt để
nghiên cứu về khoa sư phạm của “thầy giáo Giê-su thành Na-da-rét”. Và các nhà khoa học về giáo dục
và sư phạm của hơn 120 quốc gia đã nhất trí chọn Người là “Nhà Giáo
mẫu mực của mọi thời”.
Vậy,
chẳng lẽ các Giáo Lý Viên là các môn đệ của Đức Giê-su, lại không học hỏi khoa
Sư Phạm Giáo Lý nơi chính vị Tôn Sư vĩ đại của mình ?