* Việc Dạy Giáo Lý cho Người Trẻ và Người Lão Thành, và Các Trường Hợp Đặc Biệt (177-214)

¨    Dạy Giáo Lý cho Người Trẻ

Khi nói về việc dạy Giáo Lý cho người trẻ, sách Chỉ Nam Giáo Lý nhận xét rất đúng rằng giới trẻ là vừa thành phần dễ bị ảnh hưởng bởi những khủng hoảng đang đầy dẫy trên thế gian, đồng thời cũng là kho tàng chứa đầy hy vọng cho việc canh tân Hội Thánh và thế giới (Số 181). Việc dạy Giáo Lý cho người trẻ là việc rất quan trọng để giúp các em đương đầu với những thách đố của Đức Tin trong xã hội và văn hóa của chúng ta, và giúp các em phát triển các nhân đức để nhờ đó các em sẽ trở thành những phần tử vững mạnh của Hội Thánh và những công dân tốt.
Trong việc dạy Giáo Lý cho tuổi trẻ, phải nhận ra ba giai đoạn khác nhau của sự phát triển con người: tuổi thiếu niên, tuổi vị thành niên và tuổi thanh niên. Sách Chỉ Nam Giáo Lý nhấn mạnh sự cần thiết phải lưu tâm đặc biệt đến tuổi thiếu niên được gọi là “lứa tuổi chối từ”, vì các em sẵn sàng nhạy cảm với những quyến của thế tục và vật chất, và dễ bỏ việc thực hành Đức Tin. Sách Chỉ Nam tuyên bố: “Dạy Giáo Lý cho tuổi trẻ phải được canh tân và tái sinh tận gốc” (Ibid).
Việc dạy Giáo Lý cho giới trẻ có nghĩa là trình bày Đức Chúa Giêsu Kitô bằng ngôn ngữ mà người trẻ có thể hiểu và nhạy cảm với những khó khăn mà các em đang gặp phải. Không nên chỉ nhìn những người trẻ như là “mục tiêu của việc dạy Giáo Lý”, nhưng cũng phải nhìn các em như những đề tài của Giáo Lý, đề cập đến ơn Thiên Chúa Cha gọi các em làm nhân chứng cho Đức Kitô trên thế gian (Số 182).
Sách Chỉ Nam Chung cũng đòi các Sách Chỉ Nam địa phương nói lên những phương tiện thích hợp để dạy Giáo Lý cho tuổi trẻ bằng cách đi theo các đường hướng sau:

·        để ý đến sự đa dạng của điều kiện tôn giáo của tuổi trẻ: những em chưa rửa tội, những em  chưa hoàn tất việc Khai Tâm Kitô; những em đang bị khủng hoảng về Đức Tin; những em bỏ Đức Tin và cần giúp đỡ về tâm linh;
·        để ý đến hoàn cảnh xã hội và giáo dục của tuổi trẻ để việc học Giáo Lý là một phần của việc chăm sóc mục vụ cho các em;
·        việc dùng những sinh hoạt nhóm, nhất là những hội đoàn trẻ đang hoạt động, bao gồm việc linh hướng “như một yếu tố quan trọng” (Số 184).
Sau cùng, những hình thức dạy Giáo Lý cho tuổi trẻ có thể bao gồm: việc dạy Giáo Lý dự tòng cho các em chưa rửa tội; dạy Giáo Lý Khai Tâm cho các em chưa Xưng Tội Rước Lễ Lần Đầu hay chưa Thêm Sức; dạy Giáo Lý về những đề tài đặc biệt; dạy Giáo Lý trong phạm vi các buổi họp giới trẻ. Dù dạy Giáo Lý dưới hình thức nào đi nữa, thì nó cũng trên hết phải giúp các em lớn lên trong sự tự do Kitô, huấn luyện lương tâm ngay thẳng, và một “sự giáo dục về tình yêu”.  Việc dạy Giáo Lý như thế sẽ nuôi dưỡng sự đáp trả lại ơn gọi, là một công tác trọng yếu nhất mà người trẻ phải đối diện, và diễn tả diện truyền giáo của mỗi ơn gọi.

¨    Dạy Giáo Lý cho Người Lão Thành

Không được coi các người lão thành là những “vật thụ động” nhưng là những phần tử hoạt động của Hội Thánh với quyền được học Giáo Lý. Trong việc dạy Giáo Lý cho họ, phải chú ý đến tình trạng họ có thể bị “cô lập” hay bị “bỏ ra lề” (Số 186). Trên thực tế, việc dạy Giáo Lý là phương thế cho người lớn tuổi tránh bị cô độc và bị bỏ ra lề, và tiếp tục tham gia tích cực vào đời sống Hội Thánh.
Theo “điều kiện Đức Tin” của người lão thành, việc dạy Giáo Lý có thể củng cố “một Đức Tin phong phú và vững chắc” thêm, hay là thời điễm để canh tân việc sống Đức Tin giữa những người vì một lý do nào đó đã trở nên thờ ơ. Đồng thời cũng để chữa lành những đau buồn mà một số người già đang mang theo mình và cần phải được hòa giải.
Cuối cùng, việc học Giáo Lý của những người lớn tuổi giúp họ lãnh trách nhiệm là Giáo Lý viên cho trẻ em và giới trẻ là những người coi họ như những bậc đáng kính. Việc dạy Giáo Lý cho người lớn tuổi cổ võ việc “đối thoại giữa các thế hệ” (Số 188).

¨    Dạy Giáo Lý cho Những Trường Hợp Đặc Biệt

Sách Chỉ Nam Giáo Lý đưa ra một số trường hợp đặc biệt mà việc dạy Giáo Lý cần bén nhậy.
Việc dạy Giáo Lý cho những người có nhu cầu đặc biệt cần phải đầy đủ và thích ứng với cá nhân, cùng phải được giảng dạy bởi các Giáo Lý viên đã được chuẩn bị đặc biệt (Số 189).
·        Việc dạy Giáo Lý cho những người ngoài lề xã hội (những người di dân, tản cư, du mục, đi xa nhà, bệnh hoạn thường xuyên, nghiện ngập và tù đày) phải được thi hành theo giáo huấn của Dụ Ngôn Phán Xét Chung (Số 190).
·        Nên dạy Giáo Lý cho những nhóm đặc biệt (công nhân, chuyên gia, nghệ sĩ, khoa học gia, và sinh viên đại học), cần phải có những Giáo Lý viên đã được chuẩn bị cho mục vụ này (Số 191).
·        Các Giáo Lý viên phải lưu tâm đến những môi trường đặc biệt của học viên, dù là ở thành thị hay thôn quê (Số 192).
Về phạm vi tôn giáo xã hội, phải để ý đến những điều sau:
·        Việc dạy Giáo Lý phải đương đầu với những thách đố gây ra bởi một xã hội và văn hóa quá thế tục. Đức Tin “cần phải được nuôi dưỡng và duy trì không ngừng” (Số 193). Dạy Giáo Lý cách hiệu quả nhắc nhở các học viên tất cả những điều căn bản của Đức Tin, khuyến khích hoán cải, và giúp học viên làm chứng về những gì mình tin cho người khác.
·        Việc dạy Giáo Lý cũng vun xới và đề cao những mặt tích cực của các việc đạo đức phổ thông, nhất là việc sùng kính Đức Mẹ, và để tâm đến việc thanh luyện những tiêu cực, như “những sai lầm hay quá khích, mê tín, pha lẫn tôn giáo, hay không biết gì về tôn giáo” (Số 195-196).
·        Việc dạy Giáo Lý cũng phải để ý đến đại kết, bằng cách trình bày Đức Tin Công Giáo cách trọn vẹn, để giúp học viên hiễu sự phân chia đáng buồn giữa các giáo hội Kitô và các cộng đồng hội thánh, sự liên quan đặc biết của Đức Tin Công Giáo với Do Thái giáo, và những yếu tố riêng biệt của các tôn giáo khác (Số 197-200)
·        Việc dạy Giáo Lý phải giúp học viên đương đầu với các phong trào tôn giáo mới, mà giáo thuyết và cách sống “không phù hợp với nội dung của Đức Tin Kitô” (Số 201).
Về phạm vi xã hội văn hóa, việc dạy Giáo Lý chạm trán với việc hội nhập văn hóa của Đức Tin. Việc hội nhập văn hóa đòi hỏi nhận thức sâu xa về các nền văn hóa khác nhau mà trong đó học viên đang sống để Tin Mừng đạt được mục đích tối hậu là biến cải và nâng cao nền văn hóa ấy. Việc hội nhập văn hóa chứng tỏ sự siêu việt của Đức Tin mà không một nền văn hóa nào có thể hoàn toàn diễn tả được. Nó làm nảy sinh những cách diễn đạt Đức Tin mới theo sự đa dạng của văn hóa. Trong bất cứ trường hợp nào, vẫn cần phải luôn duy trì sự vẹn toàn của Đức Tin (Số 202-205).
Rõ ràng là các phương tiện truyền thông đóng vai trò thiết yếu trong công tác hội nhập văn hóa bởi vì khả năng chuyên môn của các phương tiện này trong việc truyền đạt Tin Mừng (Số 209).
Để đáp lại với những thách đố của việc hội nhập văn hóa, Sách Giáo Lý Công Giáo là một công cụ cần thiết và là tiêu chuẩn (Số 210).  Trong một nền văn hóa như nền văn hóa của chúng ta, mà trong đó Đức Tin đã được dạy qua nhiều thế hệ, hội nhập văn hóa có nghĩa là tân Phúc Âm hóa, một cách dạy Đức Tin “có nhiệt tình, các phương pháp và các cách diễn tả mới” (ĐTC Gioan Phaolo II, Tông Huấn “Hội Thánh ở Mỹ Châu”, ngày 22 tháng 1 năm 1999, số 6).
Các Giám Mục có nhiệm vụ hướng dẫn các cố gắng hội nhập văn hóa. Các ngài làm thế bằng cách cổ võ một chương trình dạy Giáo Lý càng sâu rộng càng tốt để “khắc phục sự thiếu hiểu biết và tuyên truyền sai lầm, một trở ngại lớn nhất cho mọi cố gắng hội nhập văn hóa”; bằng cách có các chương trình hội nhập văn hóa thử nghiệm dưới sự giám sát cẩn thận, bằng cách cung cấp các sách chỉ nam Giáo Lý bằng nhiều ngôn ngữ khác nhau của tín hữu; và bằng cách cung cấp các việc truyền thông và hiệp thông trong giáo phận, với các giáo phận khác và với Tòa Thánh, nhờ đó bảo đảm “một cách hội nhập văn hóa chắc chắn và cập nhật hóa” (Số 214)